Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích một tác phẩm thơ Văn mẫu lớp 9 Cánh diều tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích một tác phẩm thơ gồm dàn ý chi tiết và 2 mẫu hay nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới cho bài văn phân tích bài thơ Qua đèo ngang, Nắng mới thật sâu sắc.
Nhờ đó, các em dễ dàng trả lời câu hỏi tiết Viết – Bài 1: Thơ và thơ song thất lục bát SGK Ngữ văn 9 Cánh diều tập 1 trang 23. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn, viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ thật hay.
Dàn ý Phân tích một tác phẩm thơ
– Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác phẩm
– Thân bài:
- Nêu chủ đề tác phẩm
- Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao tác giả lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng.
- Phân tích nghệ luật lựa chọn ngôn từ.
- Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả dụng trong tác phẩm.
- Nêu lên những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vấn đề được trình bày.
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang
Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.
Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.
Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.
Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái da da” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.
Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả “nhớ nước” và “thương nhà”. Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ bốn chữ “dừng chân nghỉ lại” cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Phân tích bài thơ Nắng mới
Nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng là một trong những người mở đường, tiên phong cho phong trào Thơ mới. Thơ ông thiên về cảm xúc, mang đậm màu sắc truyền thống. Lấy chủ đề là tình cảm gia đình, ông đã thể hiện một cách đầy tinh tế và sâu sắc nỗi nhớ thương mẹ qua bài thơ “Nắng mới”. Mạch thơ trải dài với dòng hồi tưởng, đan xen giữa quá khứ, hiện tại.
Ở khổ đầu tiên, ta thấy được hình ảnh “nắng mới” đã khơi nguồn cảm xúc về kí ức của nhân vật trữ tình. “Nắng mới”, “gà trưa” đều là những hình ảnh quen thuộc gắn liền với làng quê Việt Nam. Nắng mới là cái nắng của một ngày, báo hiệu ngày mới đã sang. Chính vì vậy, nắng mới mang vẻ đẹp của sự tinh khôi, mong manh, trong trắng. Tuy nhiên, động từ “hắt” gợi liên tưởng về những tia nắng xuyên qua qua song cửa. Khung cảnh vì thế cũng trở nên ảm đạm, hiu hắt hơn. Đến dòng thơ tiếp theo, nhịp thơ đã có sự thay đổi từ 4/3 sang 2/2/3 nhằm thể hiện cảm xúc trầm buồn, nhớ thương của nhân vật trữ tình. Nếu như tiếng gà trưa trong thơ Xuân Quỳnh khơi gợi những kỉ niệm đẹp bên bà thời ấu thơ của người lính hành quân thì tiếng gà trong “Nắng mới” lại gợi ấn tượng về cảm giác não nùng, buồn bã. Trong không gian vắng lặng của buổi trưa, tiếng gà vang lên “xao xác”, “não nùng”. Dường như, “nắng mới” và “tiếng gà” đã khơi dậy trong nhân vật trữ tình dòng kí ức về một thời xa xưa. Cứ mỗi lần nhìn thấy nắng mới bên song, mỗi lần nghe tiếng gà trưa, “tôi” lại nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu “Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng/ Chập chờn sống lại những ngày không”. Thông thường, người ta hay nói “buồn rười rượi” nhưng tác giả lại đảo từ “rượi” lên trước từ “buồn” để nhấn mạnh vào nỗi buồn tê tái, khôn nguôi. Đặc biệt, từ láy “chập chờn” còn diễn tả sự khắc khoải của nhân vật “tôi” khi nhớ lại ngày thơ bé. Kỉ niệm ùa về, lúc ẩn lúc hiện đã làm sống lại cả một thời dĩ vãng trong tâm trí “tôi”.
Đến khổ thứ hai, nhân vật “tôi” trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ thương của mình về mẹ:
“Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời,
Lúc người còn sống, tôi lên mười;”.
Sở dĩ, mỗi lần thấy “nắng mới hắt bên song”, nhân vật trữ tình lại “Chập chờn sống lại những ngày không” bởi “mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”. Bóng dáng mẹ phơi áo trước giậu vào những ngày nắng mới đã trở thành kí ức khó phai trong tâm trí “tôi”. Chính bởi lẽ đó mà mỗi lần nhìn ra bên ngoài, bắt gặp ánh nắng nhân vật trữ tình lại chứa chan nỗi nhớ về hình ảnh mẹ thuở xưa kia.
Câu thơ “Hình dáng mẹ tôi chửa xoá mờ” là lời khẳng định chắc nịch của “tôi” khi hình dáng mẹ vẫn luôn hằn sâu trong tâm trí. Lúc này, nhân vật trữ tình nhớ về mẹ với “Nét cười đen nhánh sau tay áo,/ Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa”. Mẹ mang vẻ đẹp duyên dáng, hiền từ của người phụ nữ Việt Nam. Cái nắng chói chang của trưa hè đã làm bật lên nụ cười đen nhánh của mẹ. Nụ cười ấy đã theo suốt “tôi” thuở ấu thơ cho đến hiện tại.
Nỗi nhớ da diết, lắng đọng của nhân vật “tôi” cũng chính là tình cảm chân thành mà con dành cho mẹ. Bằng ngôn từ giản dị, mộc mạc, giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, nhà thơ Lưu Trọng Lư muốn bày tỏ tình yêu thương mãnh liệt của mình đối với mẹ. Qua đó, thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp của người Việt Nam, đó là tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu sắc.
Đúng như những gì Hoài Thanh đã nhận định: “Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này hay người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư”. Thơ Lưu Trọng Lư luôn có một sức hút đặc biệt với mọi người. Tác phẩm của ông là lời ca chan chứa về tình mẫu tử thiêng liêng.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích một tác phẩm thơ Văn mẫu lớp 9 Cánh diều tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.