Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 16 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 16 bài Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí ngắn gọn, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính.
Hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí hiện lên chất phác, mộc mạc nhưng giàu tình cảm khiến người đọc thêm thương mến, yêu thương. Cho dù cuộc sống có khó khăn, thiếu thốn nhưng họ luôn chung lý tưởng chiến đấu. Mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
- Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người lính trong Đồng chí
- Ý chính phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí
- Dàn ý phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí (3 mẫu)
- Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí (14 mẫu)
- Cảm nhận hình tượng người lính trong bài Đồng chí
- Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí
Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người lính trong Đồng chí
Ý chính phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí
Các luận điểm chính
- Luận điểm 1: Vẻ đẹp mộc mạc, chân thức của người lính
- Luận điểm 2: Vẻ đẹp đời sống tâm hồn, tình cảm của những người lính
Ý chính phân tích
Bài thơ về tình đồng chí đã cho ta thấy vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, cụ thể ở đây là anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hoàn cảnh xuất thân: họ là những người nông dân nghèo ra đi từ hai miền đất xa nhau: “ nước mặn đồng chua”, “ đất cầy lên sỏi đá.”
- Họ ra đi vì nghĩa lớn (hai chữ “mặc kệ” nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ …mặc dù vẫn luôn lưu luyến với quê hương “giếng nước gốc đa….”
- Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá => Những gian khổ càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá)
- Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí đồng đội sâu sắc, thắm thiết
- Kết tinh hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn cuối của bài thơ.
Dàn ý phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí
1. Mở bài:
- Giới thiệu về hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”.
2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát về tác giả và tác phẩm:
- Chính Hữu (1926 – 2007) là nhà thơ trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với phong cách sáng tác bình dị, nhiều cảm xúc và chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong sáng tác.
- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của những người lính cách mạng và được in trong tập “Đầu súng trăng treo”.
b. Hình ảnh những người lính có cùng hoàn cảnh xuất thân, chung lí tưởng chiến đấu và cùng nhau trải qua mọi khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống:
- Những người lính đều có nguồn gốc xuất thân là nông dân “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
→ Đây đều là những vùng quê nghèo khó đã tạo nên sự đồng điệu trong trái tim người lính.
- Những người lính tuy không quen biết nhau nhưng có duyên gặp gỡ và gắn bó bởi họ có chung lí tưởng chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.
- Hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt đã giúp những người lính trở thành “tri kỉ” của nhau.
c. Hình ảnh những người lính biết sẻ chia, thấu hiểu tâm tư tình cảm của đồng đội, họ cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
- Những người lính phải rời xa quê hương, rời xa “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước”, “gốc đa” để đi đánh giặc.
- Các anh hiểu rõ về nhau và còn hiểu rõ cả nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
- Những người lính còn chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của những đêm “sốt run người” vì hầu như người lính nào cũng đều phải trải qua ít nhất một lần.
- Họ cùng nhau chia sẻ những khó khăn về quân tư trang trong những ngày đầu kháng chiến nhưng vẫn lạc quan, yêu đời để “Miệng cười buốt giá”.
- Họ quên mình đi để truyền cho nhau hơi ấm “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
→ Đây là hành động của sự đoàn kết, gắn bó keo sơn, tiếp thêm sức mạnh cho đồng chí, đồng đội để cùng chiến đấu vì đất nước.
d. Hình ảnh người lính sẵn sàng chiến đấu, chờ giặc tới:
- Trong khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên “rừng hoang sương muối” thì những người lính vẫn đứng cạnh nhau, im lặng cùng chờ giặc tới.
- Hình ảnh người lính cầm súng tưởng đối lập nhưng lại vô cùng hoà quyện với thiên nhiên bởi trăng tượng trưng cho cái đẹp, sự yên bình còn người lính cầm súng là để bảo vệ tổ quốc.
e. Đánh giá:
- Bài thơ đã đem đến một làn gió mới cho khuynh hướng sáng táng của thơ ca kháng chiến.
- Bài thơ đã xây dựng thành công hình ảnh người chiến sĩ cách mạng mộc mạc, giản dị với nhiều vẻ đẹp đáng trân trọng.
- Ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu thể hiện được sự hình thành và phát triển của tình đồng chí ngày càng nâng cao.
3. Kết bài:
- Khái quát lại hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”.
…..
Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 1
Có một nhà thơ đã từng tâm sự:
“Đất nước mình đây
Hai mươi năm
Mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: “Tôi là đồng chí
Của những người đi, vô tận, hôm nay”
Đó là ai nếu không phải nhà thơ Chính Hữu – một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Giữa muôn vàn thăng trầm, biến cố của lịch sử, trên đôi tay Chính Hữu không chỉ vững vàng những cây súng đánh giặc mà còn bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính. Và “Đồng chí” là một trong những bài thơ như thế.
Tác giả Chính Hữu là một người lính cụ Hồ đúng nghĩa; Ông nguyên là đại tá, phó cục trưởng cụ tuyên huấn thuộc tổng cục chính trị- quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên phó tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1946, ông gia nhập trung đoàn thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp. Phong cách thơ của chính hữu chịu ảnh hưởng rất lớn từ hai cuộc chiến; ông gây ấn tượng với phong cách sáng tác bình dị nhiều cảm xúc và chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính.
Bài thơ đồng chí được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực thực dân Pháp, sau khi nhà thơ cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu-Đông năm 1947)- thời điểm đó đã đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ đồng chí có thể được coi là biểu tượng, tác phẩm làm nên tên tuổi của Chính Hữu; tác phẩm còn được đánh giá là tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954. Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của những người lính cách mạng, họ vào sinh ra tử với nhau, cùng nhau vượt qua những thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết; tình cảm đó khó có gì đong đếm được.
Quân xâm lược chiếm đóng nước ta, các anh nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, rời xa quê hương, gia đình để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng đó
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Những người lính đều có nguồn gốc giống nhau, từ nơi “nước mặn, đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, tài sản quý giá nhất với họ là tình yêu cháy bỏng với quê hương đất nước. Đây đều là những vùng quê nghèo khó, cuộc sống của họ quanh năm gắn với ruộng đồng nhưng cũng chẳng đủ ăn. Chính vì sự tương đồng đó mà trái tim người lính có sự đồng điệu với nhau; họ cảm nhận sâu bên trong tâm hồn mỗi người và nhanh chóng trở nên gắn kết một cách lạ thường.
Có một thứ luôn soi sáng và dẫn đường cho những người lính là lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu cho nước nhà được độc lập; để rồi những người lính cụ Hồ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấy kể cả lúc nghỉ ngơi ” Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Chính kim chỉ nam đó đã biến những con người xa lạ trở thành anh em một nhà, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn.
Cùng nhau vượt qua những thời khắc gian khổ chúng ta mới biết quý trọng những người cùng ta vượt qua thời gian đó. Hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt đã giúp những người lính trở thành tri kỉ” của nhau, họ sẻ chia cho nhau những mảnh chăn; hơi ấm để cùng nhau vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết giá lạnh.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Những hình ảnh thật gần gũi, quen thuộc nhưng cũng có chút gì đó đơn sơ đã được nhà thơ tái hiện, đó là ” ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước”, “gốc đa”. Những người lính rời xa nơi “chôn rau cắt rốn” để lên đường đánh giặc, họ rời đi thực sự không có một tài sản gì giá trị, những gian nhà không vững chắc, lung lay theo thời tiết. Họ lên đường với một cháy tim cháy bỏng, nhiệt huyết của tuổi trẻ, sẵn sàng hi sinh để đánh đổi với sự bình yên của tổ quốc.
Họ hiểu rõ về nhau và còn hiểu rõ cả nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Họ biết rằng trọng trách của mình rất lớn, trên vai là trách nhiệm với tổ quốc, phía sau họ là sự trông ngóng của gia đình mong họ trở về. Những người lính hiểu rằng, những người phụ nữ đang đợi họ ở nhà không cần những chàng trai trở về với những chiến công hiển hách mà chỉ mong họ bình yên vô sự khi quay về.
Họ chia sẻ với nhau tất cả mọi thứ, cả những gian lao vất vả, thiếu thốn nơi rừng sâu, cả những đêm “sốt run người”, nơi rừng sâu lạnh lẽo đó, nơi mà muỗi, vắt còn nhiều hơn cây cối thì thứ duy nhất họ có thể dựa vào đó chính là hơi ấm của nhau. Mỗi người lính đều phải trải qua những đêm mệt nhoài đó ít nhất một lần trong đời, người khỏi đùm bọc người ốm và cùng nhau vượt qua nghịch cảnh đó.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cuộc sống ngày thường của họ vốn đã khó khăn, có những thời điểm còn không đủ ăn thì làm sao có thể chuẩn bị đầy đủ quân tư trang để lên đường, họ giống nhau một cách lạ thường, cùng nhau thiếu rách về quân tư trang trong những ngày kháng chiến nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến nhuệ khí của họ. Những người lính vẫn lạc quan, yêu đời và một nụ cười vẫn luôn thường trực trên môi. Vào thời tiết giá lạnh đó, quần cũng không thể có chiếc quần lành lặn, không có nổi đôi giày. Họ quên mình đi để truyền nhau hơi ấm “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là hành động của sự đoàn kết, gắn bó keo sơn, tiếp thêm động lực cho đồng chí, đồng đội để cùng chiến đấu vì đất nước.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra, thiên nhiên với con người như tô điểm cho nhau, những người lính không hề run sợ mà ngược lại sẵn sàng tự tin, kề vai sát cánh bên nhau chờ giặc tới. Có một sự trống vắng không hề nhỏ ở đâu, “rừng hoang sương muối”, giường như sự xuất hiện của những người lính là sự sống duy nhất ở đây. Người lính trong tư thế nghiêm trang, hàng trang của họ là những cây súng. Hình ảnh người lính cầm súng tưởng đối lập nhưng lại hòa quyện với thiên nhiên bởi trăng tượng trưng cho sự thanh mát, yên bình còn những người lính cầm súng ra trận cũng chỉ vì một mục tiêu duy nhất là sự bình yên của đất nước.
Bài thơ đem đến một làn gió mới cho khuynh hướng sáng tác của thơ ca kháng chiến, không còn là một bức tranh hình tượng hóa người lính, Chính Hữu đi vào những chi tiết rất đời thường của họ, cùng chính là những gì mình đã trải qua như một lời tâm sự cho người đọc. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình ảnh người người chiến sĩ cách mạng mộc mạc, giản dị với nhiều vẻ đẹp đáng trân trọng, là tình yêu mãnh liệt sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc, cùng là đó là tình cảm bình dị dành cho gia đình và hậu phương quê nhà.
Mang trong mình trái tim thuần khiết, giản đơn ngoài gia nội dung bài thơ chủ yếu về người lính nên Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu đạt thể hiện được sự hình thành và phát triển của tình đồng chí ngày càng được nâng cao. Cũng chính vì vậy mà người đọc có cảm giác thân thuộc, đôi khi thấy hình ảnh của chính mình trong đó.
Người ta thường hay nói: “Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim”. Quả đúng vậy, Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên, để chất người lính cứ thể hòa vào hồn thơ, chất trữ tình hòa vào cách mạng, chất thép hòa vào thi ca. Nhưng đồng thời cũng đặt vào đó một viên ngọc sáng thuần khiết- đó là hình tượng người lính của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Để rồi khi thời gian qua đi, tác phẩm vẫn là một bài ca mãi không quên trong lòng bạn đọc.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 2
Viết về tình cảm đồng chí đồng đội trong những năm kháng chiến đã có những bài thơ rất hay, rất xuất sắc. Và trong chùm những tác phẩm ấy ta cũng không thể không nhắc đến bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Với ngôn ngữ bình dị, cách diễn đạt đặc biệt đã đem đến cho đề tài này một bài thơ mới lạ, độc đáo. Hình ảnh người lính hiện lên thật gần gũi, thân thương và cũng biết bao tự hào.
Nếu hình ảnh người lính nông dân trong bài Nhớ của Hồng Nguyên hiện lên thật hồn nhiên, chất phác:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Thì người lính của Chính Hữu lại hiện lên với bao khó khăn, gian khổ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau: người từ vùng ven biển, người lại ở trung du khô cằn, họ vốn là những người xa lạ, nhưng vì mục đích, lý tưởng chung họ tụ hội về đây. Họ chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, hình ảnh “súng bên súng đầu sát bên đầu” vừa thể hiện được nhiệm vụ chiến đấu vừa thể hiện được lí tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của các anh. Hơn nữa ông còn sử dụng điệp từ tạo nên âm điệu chắc khỏe, khắc họa đậm nét sự gắn bó bền chặt của những người lính.
Đoạn thơ đầu kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí”, đây là hình thức câu đặc biệt, chứa nhiều ý nghĩa. Chỉ hai chữ này thôi nhưng nó trở thành bản lề khép mở hai mạch thơ. Khép lại những cơ sở để tạo nên tình đồng chí cao đẹp và mở ra những biểu hiện đẹp đẽ, sáng ngời của thứ tình cảm trân quý ấy. Đồng thời hai chữ đồng chí cũng là cách Chính Hữu lý giải nguyên nhân vì sao tự bốn phương trời, từ nhiều nơi khác nhau họ lại tự nguyện gắn bó với nhau. Bởi họ là những người cùng ý chí, nguyện vọng, cùng lý tưởng chiến đấu để bảo vệ làng quê, bảo vệ những người yêu thương mà rộng ra là bảo vệ quê hương đất nước. Tình cảm cao đẹp đó là cơ sở, ngọn nguồn cho mọi sức mạnh của người lính nông dân.
Lên đường trong tâm thế dứt khoát, nhưng không vì thế người lính không nhớ về quê nhà, nhớ về giếng nước gốc đa. Nỗi nhớ ấy như một nguồn động lực, cổ vũ, động viên người lính cố gắng hơn nữa trên con đường chiến đấu bảo vệ đất nước.
Chính Hữu đã có những nét chạm khắc vô cùng chân thực về hoàn cảnh sống gian lao, thiếu thốn của những người lính. Ông không dùng cái nhìn màu hồng, tô vẽ cuộc sống mà nhìn thẳng, nhìn thực, trực diện cuộc sống đó:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày
Năm tháng chiến đấu, hành quân xuyên rừng, người lính không chỉ bị những cơn sốt rét rừng hoành hành, sự sống có thể bị cướp đi bất cứ lúc nào, mà họ còn phải chịu sự thiếu thốn về vật chất: áo rách vai, quần vá, chân không giày. Nhưng điều khiến họ có thể vượt qua mọi khó khăn đó chính là tình đồng chí, đồng đội gắn bó khăng khít: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Chính những cái nắm tay ấm áp, đầy tình cảm đã giúp họ vượt qua mọi cơn sốt rét rừng, giúp họ vượt qua mọi cái giá lạnh, khắc nghiệt của thời tiết, để hướng tới lí tưởng, nhiệm vụ chung:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Họ chủ động, tự tin, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến. Câu thơ cuối chỉ có bốn chữ, cô đọng, hàm súc, chứa đựng biết bao ý nghĩa trong đó. Về ý nghĩa tả thực: trong đêm phục kích giặc giữa nơi rừng núi hiểm trở, vầng trăng trở thành người bạn luôn kề vai sát cánh với người lính. Về khuya trăng xuống thấp dần, nhìn từ xa có cảm giác trăng đang treo lơ lửng nơi đầu mũi súng. Không chỉ vậy với nhịp thơ 2/2 và từ gợi hình treo, ta có cảm tưởng vầng trăng đang lắc lư theo nhịp điệu chứ không hề tĩnh tại. Khiến cho khung cảnh trở nên sinh động hơn. Ngoài ra hình ảnh đó còn mang ý nghĩa biểu tượng. Ánh trăng và người chiến sĩ cũng chính là người chiến sĩ và thi sĩ, giữa thực tại và mơ mộng, giữa chiến tranh và hòa bình. Hai hình ảnh mặc dù đối lập nhau nhưng trong câu thơ của Chính Hữu lại hòa hợp với nhau đến bất ngờ, cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, yêu đời của người lính, họ luôn cầm chắc tay súng để bảo vệ sự bình yên cho tổ quốc.
Bằng lớp ngôn từ cô đọng, hàm súc, hình ảnh chân thực, mang tính khái quát cao, tác phẩm đã ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng. Đồng thời tác giả cũng đã tái hiện một cách chân thực, giản dị mà cao đẹp hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 3
Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Tập thơ “Đầu súng trăng treo” với bài thơ “Đồng chí” là một trong những thi phẩm xuất sắc, điển hình, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Chính Hữu. Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ là bức chân dung đẹp về người lính cụ Hồ.
Thi phẩm được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947. Với cái nhìn chân thực của người lính – người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng ra mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình đồng chí của người lính cách mạng.
Trước hết, họ là những người lính xuất thân từ những chàng trai nông dân áo vải lam lũ, nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước và chứa chan tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương dân tộc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc”
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc.
Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuốc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ khác cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.
Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết… Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình.
Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lý tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ.
Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
Tóm lại, bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 4
Hình ảnh người lính trong kháng chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến. Ở mỗi một thời kỳ, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Đến với Chính Hữu, chúng ta bắt gặp hình ảnh của người lính nông dân chân chất và mộc mạc trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất khó canh tác. Đấy đều là những vùng quê chiêm trũng và nghèo đói quanh năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính là người con của mảnh đất quê hương đấy, họ đều là những người nông dân cần cù, lam lũ, chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân. Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ gặp được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã vùng quê của mình để lên đường bảo vệ quê hương, đất nước. Họ cùng chung mục đích, lý tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia sẻ ngọt bùi và gian khổ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy là cái nghèo xơ xác của những vùng quê hay cũng chính là nỗi trống trải trong lòng của những người ở lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ ấy.
Chiến tranh diễn ra ác liệt, những người lính không chỉ phải đối mặt với mưa bom bão đạn của kẻ thù, ở đây Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống thường ngày của những người lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ, thiếu thốn tất cả những vật dụng hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép. Nhưng ở họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt qua thử thách, khó khăn trùng điệp.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay ấy không chỉ là cái nắm tay đơn thuần mà nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Ở đây chúng ta bắt gặp hình ảnh về người lính xiết bao cảm động và ấm áp, đấy là sức mạnh của tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành động nắm tay nhau ấy không khác gì việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”, có thể nó không đủ sưởi ấm cơ thể họ, nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái tim họ.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết, thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong tư thế chủ động tấn công “chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng và trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt và gian khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất nước thanh bình. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về tâm hồn của người lính giữa chiến sĩ và thi sĩ, giữa hiện tại và mộng mơ. Tâm hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp và sống động tới nỗi dù cho hôm nay và mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 5
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã trở thành một đề tài được nhiều người lựa chọn để đưa vào thơ ca của mình, nhưng đối với “Đồng chí” của Chính Hữu đó là hình ảnh của người lính giống như bức tượng đài về tình đồng chí, đồng đội cùng chung cảnh ngộ, chung lý tưởng cách mạng.
Các anh là những người nông dân chất phác, vì đất nước còn nghèo, còn khó khăn nhưng trên đó là cảnh đất nước bị xâm chiếm, các anh đành bỏ lại tất cả “ruộng nương, gian nhà” những tài sản lớn nhất của cuộc đời mình để xung phong lên đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương, đất nước.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Khi những người nông dân mặc áo lính chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là các anh đã cùng chung một lý tưởng, chung một chiến hào, họ sát cánh bên nhau, trở nên gần gũi với nhau.
Khi mà chúng ta thiếu thốn về tất cả mọi mặt và phải đối diện với thời tiết khắc nghiệt phải “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ” để các anh ngày càng gần nhau hơn nữa, đến cái chăn cũng khó đủ để đắp, các anh “chung bát, chung đôi, chung chăn, chung lý tưởng”, “thương nhau chia củ sắn, củ khoai, chăn sui đắp cùng”. Chính những lúc thiếu thốn, khó khăn này làm nảy sinh ra biết bao nhiêu tình cảm, khi tấm chăn đắp lại là lúc tâm tình mở ra, họ kể cho nhau rất nhiều về đời sống, tình yêu, gia đình, làm họ ngày càng hiểu nhau hơn và dần dần tình cảm ấy trở thành “đôi tri kỉ”. Khi hai từ “đồng chí” được cất lên là biết bao nhiêu tình cảm trong họ trỗi dậy, đó là tiếng gọi tha thiết cất lên từ trái tim của những người có cùng chí hướng đánh giặc cứu nước.
Chính Hữu đã từng tâm sự rằng: “Những ngày đầu kháng chiến, từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng, nói về tình cảm của các anh bộ đội. Cuộc sống của người này trở nên cần thiết đối với người kia. Họ bảo vệ nhau trước mũi súng kẻ thù, cùng đi qua cái chết, cùng thực hiện lý tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa sâu sắc về tình đồng chí.”
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.”
Hình ảnh “ruộng nương, gian nhà” là những hình ảnh quen thuộc trên mọi làng quê Việt Nam, đó là tài sản lớn nhất của cuộc đời họ, nhưng rồi họ đành bỏ lại tất cả để lên đường chiến đấu, vượt lên trên hết đó là tình yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hy sinh vì cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nhưng họ đâu chỉ có chia sẻ cho nhau những tâm tư, tình cảm trong cuộc sống mà họ còn chia sẻ và động viên nhau trong những thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến tranh:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không già
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bệnh sốt rét là căn bệnh nguy hiểm và phổ biến trong bộ đội ta lúc bấy giờ, nhưng bộ đội lại thiếu thốn về cả mặt thuốc men, chính vì thế mà các anh phải đấu tranh, chống chọi lại, có người còn “tóc không mọc” được vì căn bệnh đó tàn phá, nhưng khi đó đã có tôi và anh, chỉ cần chúng ta có nhau vì chung ta chiến đấu vì lòng yêu nước, vì lý tưởng cách mạng. Qua đó để chúng ta thấy được tình yêu thương mà họ dành cho nhau thật đáng quý.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bàn tay ấy truyền hơi ấm cho nhau, cùng nhau vượt qua bệnh tật, vượt qua thời tiết khắc nghiệt, tiếp thêm sức mạnh cho nhau. Nhà thơ từng bộc bạch rằng: “tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó để kể hết nhưng chúng tôi đã vượt qua nhờ sự gắn bó tiếp sức giữa các đồng đội trong quân ngũ, cho tới hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn cảm xúc bồi hồi”.
Điển hình là hình ảnh “đầu súng trăng treo”. “Đầu súng trăng treo” là biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí. Với 3 câu thơ đó khi đọc lên ta thấy được bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí đã được dựng lên trên cái nền của thiên nhiên khắc nghiệt “đêm nay rừng hoang sương muối”, giữa một buổi đêm khuya với một không gian rộng lớn, bát ngát của núi rừng Việt Bắc, rừng hoang sương muối phủ trắng trời, thời tiết, địa lý khắc nghiệt đó như là thử thách cho tình đồng đội của người lính. Khi Chính Hữu dựng nên cái nền như thế để tác giả tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên rừng núi với bức chân dung của người, tác giả sử dụng không gian địa lý đó để làm nền tô đậm thêm bức chân dung đấy trong tư thế họ đứng cạnh nhau chờ giặc.
Nhà thơ từng chia sẻ: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng, đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có 3 nhân vật: “khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu”, ba hình ảnh ấy quyện vào nhau tạo thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” ngoài hình ảnh thì 4 chữ này còn có nhịp điệu như nhịp tắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao và xuống thấp dần, có lúc lại treo lơ lửng đầu mũi súng”.
Với động từ “chờ” nghĩa là sẵn sàng, chủ động, hiên ngang chờ giặc, trong thời tiết khắc nghiệt họ vẫn bình thản, lãng mạn bên cuộc chiến này, có lẽ chỉ có những người lính mới có vẻ đẹp tâm hồn như thế, tâm hồn này đã được tôi luyện, đã dạn dày kinh nghiệm nơi chiến trường rồi thì mới có được cái tâm thế như thế được. Gian khổ là thế, khó khăn là thế, bom đạn của kẻ thù là thế, mà có thể khiến cho những người lính của chúng ta mất đi cái vẻ đẹp ấy, luôn chan chứa về tình đồng đội, về niềm tin rằng ngày mai cuộc chiến của chúng ta sẽ giành thắng lợi.
Nếu như khổ đầu của bài thơ là tình đồng chí, khổ thứ hai là “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, thì khổ 3 là hình ảnh “đầu súng trăng treo” là điểm nhấn của khổ 3 và điểm sáng của cả bài, nó thổi bùng lên hình ảnh tươi đẹp về tình đồng chí.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” có hai ý nghĩa. Tả thực: đó là hình ảnh của những người lính hằng đêm vẫn thay phiên nhau canh gác, khi đó họ phải đứng trên một chòi cao để quan sát được xa và rõ nhất, khi đó thì các người lính chĩa ngọn súng của mình lên bầu trời, khi mà trăng sao sáng trong như vậy, khi ta nhìn từ dưới lên trên thì ta nhìn thấy ngọn súng của những người lính, chạm vào ánh trăng, trăng như sà xuống đậu trên đầu của ngọn súng, vì thế trăng chính là một người bạn, treo trên đầu ngọn súng.
Còn ý nghĩa thứ là ta hãy liên tưởng thử xem, nếu hình ảnh “đầu súng” vốn tượng trưng cho chiến tranh, còn “trăng” tượng trưng cho hòa bình, tác giả đặt hòa bình với chiến tranh, hiện thực với lãng mạn để ta thấy được Chính Hữu có điểm nhìn đầy lãng mạn, đầy tin yêu. Những người lính vừa mang tâm thế của thi sĩ vừa mang tâm thế của chiến sĩ. Một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, lãng mạn của người lính.
Người lính cụ Hồ hiện lên qua những vần thơ của Chính Hữu thật đẹp đẽ, thật lãng mạn, ta như được người nhìn thấy họ chiến đấu, thấy họ phải chịu biết bao nhiêu nỗi đau về thể xác và tinh thần nhưng vượt lên trên đó là tình yêu thương, đùm bọc, chia sẻ với nhau.
Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng chí – Mẫu 6
Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp.
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu… nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.
Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.
Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lý tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.
Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình ảnh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.
Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc họa rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”… Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”… câu kết thúc thư vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khó, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.
Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
…..
Cảm nhận hình tượng người lính trong bài Đồng chí
Hình tượng người lính trong kháng chiến là đề tài thu hút nhiều bút lực. Đó là anh hùng áo vải sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân đất nước, nhiều nhà thơ đã viết về họ… Và trong đó không thể không kể đến một bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Nhưng tinh thần đoàn kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.
Chính Hữu viết “Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường tình đồng chí đồng đội thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng.
Trước hết tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ giới thiệu quê hương của những người lính “anh”, “tôi” đều là những người lính xuất thân từ nông dân. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” chỉ vùng ven biển đất khó làm ăn. “Đất cày sỏi đá” là vùng đồi núi trung du khó canh tác. Nghĩa là họ đều chung cái nghèo khó, là cơ sở đồng cảm về giai cấp của những người lính. Và chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng, rồi trở lên thân quen với nhau, khi họ cùng chung niềm vui đánh giặc.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
Hình ảnh thơ sóng đôi, họ không chỉ chung nghĩa vụ trí hướng mà tình đồng chí cùng gắn bó chặt chẽ kề vai sát cánh bên nhau, đối mặt với quân thù. Khi màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại cùng chung một tấm chăn lông nỉ rỉ chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện gian nan khó nhọc – Họ thành đôi tri kỉ. Đôi bạn trí cốt hiểu nhau sâu sắc.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu. Lời thơ thứ 7 gồm một từ với hai tính cùng dấu “!” tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha xúc động vừa như một phát hiện, kết luận vừa như bản nề gắn kết hai đoạn thơ làm nổi rõ một tất yếu. Cùng hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp đồng chí còn là như thế nào nữa? Vậy cách lập dàn ý đó tạo nên một kết cấu đặc sắc cho bài thơ.
Những câu thơ tiếp theo mở ra những biểu hiện cụ thể, cảm động về tình đồng chí, giữa những người lính trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trở thành đồng cảm.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Lời thơ nói về “anh” – về bạn bởi người lính cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc họ lên đường và trở thành người lính. Hậu phương nhà cửa gửi lại hậu phương. Hình ảnh “gian nhà… lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Gian nhà không – gian nhà trống không tài sản có phần siêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó tận cùng của người lính nông dân. Song họ vẫn vui vẻ lên đường vì nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát kiên quyết nhưng tâm tư vẫn luôn hướng về hậu phương. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Nghệ thuật nhân hóa hoán dụ diễn tả quê hương nhớ người đi lính, nhưng thực chất người đi lính nhớ nhà, gốc đa giếng nước nơi chứng kiến cuộc chia ly lên đường…
Những kỉ niệm ấy luôn leo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau đồng cảm niềm vui nỗi buồn. Tình cảm đồng chí đặc biệt được thể hiện ở sự chia sẻ tâm tư nỗi niềm. Những gian nao thiếu thốn của cuộc đời người lính biết bao gian khổ.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết khó khăn gian khổ, thiếu thốn bệnh tật. Những cơn sốt rét rừng hành hạ là có thực, đói rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh một manh, quần rách vá là thực. Sương muối phủ rừng hoang… Bút pháp hiện thực thể hiện qua những câu thơ sóng đôi góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh ngộ… Song cái đẹp nhất, quý giá nhất ở người lính là tình đồng đội, thương nhau tay nắm… tay. Trong đói rét hiểm nguy người lính đã tìm hơi ấm nơi bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm sức mạnh vượt lên. Cuộc chiến đấu trường kì gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, tình yêu thương giai cấp là nền tảng cơ sở để tồn tại. Tiếp sức cho nhau, tiếp tục chiến đấu thắng lợi cuối cùng.
Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình đồng chí gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Ba câu thơ dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí trong hoàn cảnh khắc nghiệt: Đêm, rừng hoang, sương muối đôi bạn chiến đấu tạo lên tư thế vững trãi, nương tựa vào nhau. Người lính trong cảnh phục kích giặc giữa rừng khuya còn có những người bạn nữa – Vầng trăng, ” đầu súng trăng treo” là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của chính tác giả.
Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra liên tưởng phong phú ” súng và trăng là gần và xa”. Thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất chữ tình. Chiến sĩ và thi sĩ. Đó là các mặt bổ sung cho nhau hài hòa với nhau về cuộc sống cách mạng.
Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp hiện lên trong bài thơ thật giản dị chân thật hàm súc, giàu sức biểu cảm. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu. Đã góp phần quan trọng tạo lên vẻ đẹp sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng. Bài thơ giản dị nhưng để lại trong người đọc nhiều rung cảm sâu sắc là bằng chứng xác thực về một thời oanh liệt tình người cao đẹp.
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí
Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vừa cầm súng vừa cầm bút làm thơ, ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều thi phẩm đặc sắc về chiến tranh và người lính. Một trong số đó phải kể đến “Đồng chí” – tác phẩm được coi là “sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt”. Trong bài thơ này Chính Hữu không chỉ khắc họa thành công tình đồng chí,đồng đội giữa những người lính mà còn dựng lên được bức chân dung sống động về những người lính cụ Hồ kiên cường, bất khuất.
Trước hết, Chính Hữu đã đề cập đến nguồn gốc, xuất thân của những người lính, để từ đó làm sáng lên lí tưởng yêu nước, tinh thần chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Những người lính vốn có xuất thân từ những người nông dân nghèo với cuộc sống lam lũ, vất vả nơi “nước mặn đồng chua”.
Cách diễn đạt thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” đã gợi ra hình ảnh của những làng quê nghèo, đất đai cằn cỗi khó cấy trồng, làm ăn, canh tác.
Có lẽ đây chính là điểm tương đồng đầu tiên của những người lính, và đây là cơ sở để những người lính chung sức, đồng lòng vì lí tưởng chung.
“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ những con người xa lạ, họ đến từ những vùng khác nhau của đất nước, xong chính lí tưởng cứu nước thiêng liêng đã gắn kết họ lại với nhau thành một đội quân cách mạng, cùng nhau chiến đấu. Để từ đó họ trở thành những người đồng chí, đồng đội:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Những người lính không chỉ có chung những lí tưởng cao đẹp mà họ còn có tình cảm đồng chí đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau cả trong chiến đấu cũng như trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khắc nghiệt.
Những người lính đã phát huy được những truyền thống quý báu của dân tộc- đó là sự đoàn kết sức mạnh, đó là tình yêu thương gắn bó giữa những người đồng chí, đồng bào. Tình cảm cao đẹp này thật đáng quý biết bao!
Những người lính ra đi với tinh thần khẳng khái, quyết tâm cao độ với lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Và đối với những người lính, họ ra đi là không xác định ngày về. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh dâng hết hết mình cho tổ quốc, non sông.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà chung mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Hình ảnh “ruộng nương”, “gian nhà chung” càng làm nổi bật lên cái tinh thần bất khuất, quật cường của những người lính ấy.
Ra đi thực hiện trách nhiệm với tổ quốc nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người lính đều mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
Nói đến điều này, Chính Hữu không phải nhấn mạnh đến tình cảm, nỗi nhớ nhà của những người lính mà để làm nổi bật lên tinh thần quật cường, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao, nhấn mạnh đến quyết tâm dâng hiến hết mình cho cuộc chiến đấu gian khổ.
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” câu thơ đã biểu đạt được một cách tinh tế tình cảm yêu nhớ sâu sắc mảnh đất chọn rau của những người lính.
“Giếng nước”, “gốc đa” là những hoán dụ chỉ không gian quê nhà thân thuộc, gắn bó. Những người lính mang theo tình yêu mãnh liệt với quê nhà, và đó sẽ là nguồn sức mạnh lớn lao để những người lính ấy thêm mạnh mẽ, quyết tâm.
Trong không khí mưa bom, bão đạn, trong hoàn cảnh sinh hoạt vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn, những người chiến sĩ vẫn không mảy may quan tâm, nản lòng. Họ thể hiện được sự lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào tương lai:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”
Những câu thơ trên cho ta thấy tận cùng của cái khắc nghiệt nơi “Rừng thiêng nước độc”, những thiếu thốn, cực nhọc trong cuộc sống của những người lính. Đó là những cơn sốt rét vì bị muỗi độc cắn nhưng không có thuốc thang chạy chữa, đó là sự thiếu thốn của cuộc sống sinh hoạt, quân trang không lành lặn “rách vai”, “vài mảnh vá”, “chân không giày”…
Thiếu thốn là vậy, khó khăn là vậy nhưng những người lính vẫn lạc quan, vui tươi, giọng điệu hóm hỉnh, cười đùa. Cái tinh thần ấy,niềm tin ấy của những người lính đã cho thấy cuộc sống khắc nghiệt không thể cản trở được họ trên con đường thực hiện lí tưởng cách mạng.
Thêm nữa, những người lính truyền cho nhau hơi âm, sức mạnh bằng hành động:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Hình ảnh “bàn tay nắm lấy bàn tay” thể hiện được tình đồng chí gắn bó, kết đoàn.
Tình đồng chí không chỉ được thể hiện ra trong sinh hoạt, những chia sẻ của cuộc sống thường nhật mà còn biểu hiện mạnh mẽ trong chiến đấu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu sung trăng treo”
Thời gian “đêm nay”, không gian là “rừng hoang” vắng lặng, thời tiết rét buốt đầy sương muối. Sương muối làm tê da như kim châm. Giữa cảnh hoang vu, tịch mịch ấy, tình đồng chí đồng đội vẫn tỏa ra khiến người ta ấm áp.
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
Đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh có đồng đội người lính còn có một người bạn tâm giao, thân thiết nữa, đó là vầng trăng.
“Đầu súng trăng treo”
Vầng trăng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca nhưng trăng sà xuống treo trên mũi sung lạ là một phát hiện mới mẻ, khám phá bất ngờ của riêng Chính Hữu.
“Đồng chí” của Chính Hữu đã khắc họa sinh động bức chân dung tinh thần của anh bộ đội cụ hồ thời kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân mặc áo lính, yêu quê sâu lặng nhưng sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả để lên đường chiến đấu; trong gian khó vẫn lạc quan, yêu đời, gắn bó với đồng đội. Hình ảnh đó thật đẹp đẽ biết bao!
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 16 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.