Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về thành nhà Hồ (Dàn ý + 4 mẫu) Thuyết minh danh lam thắng cảnh lớp 8 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 4 bài Thuyết minh về thành nhà Hồ HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 nắm rõ vị trí địa lý, quá trình hình thành, đặc điểm về kiến trúc thành nhà Hồ để viết bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh thật hay.
Thành nhà Hồ còn có tên gọi khác là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai. Thành nhà Hồ là di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta, thuộc địa phận 2 xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8:
Dàn ý thuyết minh về thành nhà Hồ
I. Mở bài:
- Giới thiệu di tích lịch sử thành nhà Hồ.
II. Thân bài:
* Khái quát chung:
- Tên gọi khác: thành Tây Đô, thành Tây Kinh, thành Tây Giai, thành An Tôn.
- Kinh đô của nước Đại Ngu (quốc hiệu nước ta dưới thời Hồ Quý Ly).
- Thuộc địa phận 2 xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
- Được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly vào khoảng đầu năm 1397, dưới thời vua Thuận Tông.
- Năm 2011 thành nhà Hồ đã vinh dự được UNESCO công nhận là di tích văn hóa thế giới, đồng thời được thủ tướng chính phủ xem xét là 1 trong 62 di tích đặc biệt cấp quốc gia, cần phải bảo tồn chặt chẽ.
* Đặc điểm:
– Địa thế sông nước bao quanh, núi non hiểm trở, duy ác, phù hợp cho quá trình phòng ngự, phản công.
– Thành ngoại còn gọi là La thành, đóng vai trò bảo vệ được đắp bằng 10.000 khối đất, lại trồng thêm tre gai dày đặc, bên trong gồm những hào rộng gần 50m, giúp ngăn chặn sự tấn công bất ngờ của kẻ địch.
– Phần nội thành:
- Có hình dáng gần như vuông, mỗi cạnh dài xấp xỉ 860m, tọa lạc trên một khoảng đất có chu vi 3,5km.
- Phần chân thành dày tầm 20m, với bốn cửa theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc, mỗi cổng cao tầm 10m.
- Mặt bên ngoài thành được ghép bằng những khối đá tảng lớn kích thước 2x1x0,7m, bên trong tiến hành đắp bằng đất.
- Các cổng được xây dựng theo hình cuốn vòm, các khối đá tảng vuông vức được xếp sít nhau theo hình múi bưởi, vô cùng chắc chắn, giúp thành chống đỡ được những cơn rung chấn mạnh ví như động đất.
- Dù không hề sử dụng bất kỳ chất kết dính nào thế nhưng các phiến đá vôi màu xanh này vẫn liên kết với nhau một cách chặt chẽ, không hề suy chuyển trong ngần ấy thời gian.
- Ngoài những phần tường đá còn sót lại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay thì hầu như các kiến trúc khác như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu,… đều đã bị phá hủy chỉ còn sót lại đền Nam Giao được xây bằng đá nằm ở phía trong nội thành.
* Ý nghĩa:
- Là một trong những di tích lịch sử quan trọng lưu giữ nhiều những giá trị cả về mặt văn hóa lẫn kiến trúc thời trung đại.
- Chứng tích lịch sử quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một giai đoạn có nhiều biến động.
- Minh chứng ý thức giữ gìn độc lập của dân tộc của nhà Hồ.
III. Kết bài:
- Nêu nhận xét.
Thuyết minh thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 62 di tích quốc gia đặc biệt.
Thành xây trên địa phận hai thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Vị trí thành nhà hồ so với các trung tâm thành phố lân cận.
Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng 1 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao… còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.
Theo chính sử, thành được xây dựng rất khẩn trương, chỉ trong 3 tháng. Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành bao gồm thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.
Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc – Nam dài 870,5m, chiều Đông – Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam – Bắc – Tây – Đông gọi là các cổng tiền – hậu – tả – hữu (Cửa Tiền hay còn gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai). Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn).
Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di tích còn lại hiện nay là 4 cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường thành và đặc biệt là Di tích Đàn tế Nam Giao còn khá nguyên vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính điện chạm một đôi tượng rồng đá rất đẹp dài 3,62 m.
Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.
Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao.
Thuyết minh về thành nhà Hồ – Mẫu 1
Thành Nhà Hồ – một công trình kiến trúc quân sự thuộc hàng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam và Khu vực trong thời kỳ cuối thế kỉ XIV đầu thế kỷ XV. Công trình có giá trị nổi bật toàn cầu với kiến trúc kiểu kinh thành phương Đông, vừa là trung tâm quyền lực, vừa là pháo đài quân sự, thể hiện sự gắn kết tài tình giữa công trình kiến trúc với cảnh quan văn hóa và thiên nhiên nằm trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng tòa thành này là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị hóa, còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất cảnh quan và quy mô kiến trúc. Với những giá trị nổi bật, ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản Thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris của nước Pháp đã chính thức công nhận Thành nhà Hồ là Di sản văn hoá thế giới.
Thành Nhà Hồ được xây dựng vào năm 1397, theo lệnh của Phụ chính Thái sư nhiếp chính nhà Trần là Hồ Quý Ly. Thành được xây dựng trong thời gian rất ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397). Cùng năm đó Hồ Quý Ly cho di chuyển kinh đô từ thành Thăng Long (Hà Nội) vào Thành Nhà Hồ (Thanh Hoá). Khu di tích Thành Nhà Hồ bao gồm một phức hợp các thành phần kiến trúc được xây dựng có tính toán, kết hợp giữa các kiến trúc nhân tạo với hình thế tự nhiên, để đảm bảo chức năng làm một kinh đô mới thay cho kinh đô Thăng Long. Năm 1400, với sự đăng quang của Hồ Quý Ly, lập ra triều đại Hồ, Thành Nhà Hồ trở thành quốc đô, nước Đại Việt được đổi tên thành Đại Ngu. Đến năm 1407, cùng với sự thất bại trong việc chống lại cuộc xâm lược của nhà Minh, Thành Nhà Hồ thất thủ, cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng triều đình Đại Ngu bị quân nhà Minh bắt. Kể từ đó, Thành Nhà Hồ không còn vai trò là kinh đô nữa.
Thành Nhà Hồ là tên thường gọi của tòa thành bằng đá còn khá nguyên vẹn giữa vùng đồng bằng lưu vực sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa phận các thôn Tây Giai, Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến), Đông Môn (xã Vĩnh Long), huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, thuộc miền Bắc Việt Nam. Thành còn có tên gọi khác như: thành An Tôn vì khu vực này vào cuối thời Trần có tên là động An Tôn, thành Tây Đô vì thành là kinh đô của nước Đại Việt (1397-1400) và Đại Ngu (1400 – 1407); thành Phủ Thanh Hoá do nhà Minh đặt sau khi chiếm Đại Việt, Tây Kinh để phân biệt với Đông Kinh (Thăng Long), Thạch Thành vì thành được xây toàn bằng đá, thành Tây Giai vì thành thuộc thôn Tây Giai.
Ngày nay, sau hơn 600 năm thăng trầm của lịch sử, tòa thành vẫn hiện diện uy nghi với các tường thành và cửa thành còn khá nguyên vẹn. Các kết quả khai quật khảo cổ học đã bước đầu làm xuất lộ nhiều thành phần kiến trúc của kinh đô cổ này. Ngoài thành trong với tường thành có hào nước bao quanh, dấu tích của các cung điện, đền miếu của vương triều bên trong, phức hợp di sản Thành Nhà Hồ còn có La thành và Đàn tế Nam Giao.
Nếu “hoành tráng” hay “kỳ vĩ” được dùng khá khiêm tốn khi miêu tả Thành Nhà Hồ, thì “độc đáo”, “tinh tế” và đầy “bí ẩn” lại là lối diễn đạt tuyệt vời, một cách ngợi khen “trúng” nhất về thành trì này. Điều đó khởi phát từ chính những giá trị tự thân của tòa thành và sâu xa hơn, nó khởi phát từ cội nguồn văn hóa Việt Nam – nền văn hóa vốn hướng đến ưa chuộng sự hài hòa “thiên – địa – nhân”.
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, kiến trúc đã so sánh và tìm thấy sự tương đồng nhiều mặt giữa Tây Đô và Đông Đô (Hoàng thành Thăng Long). Đó là sự kế thừa tất yếu. Mang bản sắc văn hóa, có tính đại diện cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc, điều đó khẳng định sự ra đời của Thành Nhà Hồ nằm trong “mạch” văn hóa truyền thống và chính thống. Mà văn hóa lại là cơ sở quan trọng để đánh giá giá trị của di sản, đúng như tiêu chí do UNESCO đề ra.
Hấp dẫn đến từ sự bí ẩn. Thành Nhà Hồ là hiện tượng có tính đột khởi về kỹ thuật khai thác, chế tác và xây dựng một đại công trình với nguyên liệu cơ bản là các tảng đá lớn. Không phải công trình duy nhất trong nước và khu vực có lối kiến trúc bằng đá, nhưng Thành Nhà Hồ vẫn là minh chứng “vô tiền khoáng hậu” về kỹ thuật xây dựng khác biệt, độc đáo. Nhiều người đã đặt câu hỏi: bằng công cụ thô sơ, chỉ dùng sức người là chính, vậy làm thế nào những người thợ có thể chuyển những khối đá nặng trên chục tấn lên cao 8 – 10m, xếp chúng chồng khít với nhau mà không dùng bất kỳ chất kết dính nào để “vá” các phiến đá? Đây vẫn còn là ẩn số lớn chưa thể lý giải? Triều Hồ tuy ngắn ngủi nhưng nổi bật ở những cách tân đầy táo bạo trên nhiều lĩnh vực. Bởi vậy, mạo muội nghĩ rằng, phải chăng kỹ thuật xây dựng thành Tây Đô cũng nằm trong ý đồ cách tân toàn diện hay là bức thông điệp thứ nhất cũng thành công nhất về sự cách tân của nhà Hồ mà khởi xướng và đứng đầu là Hồ Quý Ly?
Với tư cách là kinh đô của nhà nước Đại Việt cuối Trần đầu Hồ, Tây Đô được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản về địa thế, phong thủy, tiền án hậu chẩm đều có hình sông thế núi bao bọc. Thành tọa lạc ở vị trí giáp ranh đồng bằng và miền núi, cảnh quan đẹp, sông núi hài hòa, địa hình đa dạng tạo lợi thế về quân sự. Sử dụng tới 20.000 m3 đá để xây dựng và gần 100.000 m3 đất được đào đắp, thành được kết cấu gồm 3 phần: Hoàng thành (nội thành); Hào thành bao bên ngoài, cách chân thành chừng 50m, có tác dụng bảo vệ nội thành và La thành là vòng ngoài cùng. Chính sử chép: “Tháng giêng năm Đinh Sửu (1397), Hồ Quý Ly sai Thượng thư Lại bộ kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh về Yên Tôn khảo sát thực địa, đo đạc, đắp thành, đào hào, lập nhà tông miếu, xây đàn thờ thần, mở phố sá lập đường ngõ, công việc làm 3 tháng thì xong” – (sách “Đại Việt Sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên). Với khối lượng công việc lớn, đặc biệt là việc xây 4 bức tường thành bằng các phiến đá lớn, người xưa chỉ mất 3 tháng. Đó không chỉ là sức lực, đó còn là trí lực tuyệt vời của con người đã đổ xuống và hằn lên công trình này. Và theo đó, thời gian xây dựng Thành Nhà Hồ không chỉ khiến nhiều người kinh ngạc, thán phục mà còn là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của tòa thành. Trải qua 6 thế kỷ tồn tại, phần kiến trúc bên trong hoàng thành đã bị hủy hoại, vùi lấp hết, song 4 bức tường thành – biểu tượng của Thành Nhà Hồ – vẫn giữ tương đối nguyên vẹn kiến trúc ban đầu, nổi bật với 4 cổng Nam, Bắc, Đông, Tây.
Bên cạnh phần di tích lộ thiên, tiến hành khảo cổ tổng thể di tích Đàn tế Nam Giao và khai quật trên diện tích hàng chục nghìn mét vuông khác, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng nghìn di vật và nhiều mảng kiến trúc thể hiện sự giao thoa, tiếp biến kiến trúc các thời Trần, Hồ và Lê sơ như sân lát gạch, các trụ chân tảng bằng đá, Giếng Vua… Đó là những lớp trầm tích văn hóa, thể hiện sự tiếp nối các giai đoạn lịch sử, các triều đại phong kiến mà vương triều Hồ là một mắt xích không thể thiếu.
Có thể nói, nhìn trên bình diện nào, dù là kiến trúc, lịch sử, văn hóa hay khảo cổ, Thành Nhà Hồ đều “phát lộ” ánh hào quang của riêng nó. Từng đóng vai trò là nơi giao lưu, trao đổi các giá trị văn hóa giữa Việt Nam với các nước Đông Á và Đông – Nam Á; nơi duy nhất ghi dấu ấn đặc biệt trong việc thực hiện các quyết định cách tân đất nước của vương triều Hồ, góp phần thúc đẩy và tăng cường các trào lưu tư tưởng mới ở Việt Nam và khu vực… Ngày nay, Thành Nhà Hồ trở thành chứng nhân lịch sử và những giá trị tự thân của nó đương nhiên đã mang “tầm” thế giới khi chính thức ghi tên mình vào “ngôi đền” di sản văn hóa nhân loại.
Hành trình đến với di sản thế giới Thành nhà Hồ là một hành trình dài với thời gian 6 năm (2006 – 2011). Bên cạnh sự cố gắng của các ngành, cơ quan trung ương; các chuyên gia trong nước và quốc tế; UBND tỉnh Thanh Hóa; nhân dân huyện Vĩnh Lộc trong việc thực hiện song song công tác chuyên môn với việc giới thiệu, quảng bá và từng bước Bảo tồn di sản, thì những giá trị nổi bật của thành nhà Hồ là yếu tố quyết định đến việc được công nhận là Di sản Văn hóa nhân loại.
Thành nhà Hồ đáp ứng được hai tiêu chí số II và IV của UNESCO. Đó là nơi giao lưu, trao đổi các giá trị văn hóa giữa Việt Nam với các nước Đông Á và Đông – Nam Á; là nơi duy nhất ghi dấu ấn đặc biệt trong việc thực hiện các quyết định cách tân đất nước của vương triều Hồ, góp phần thúc đẩy và tăng cường các trào lưu tư tưởng mới ở Việt Nam và khu vực. Thành nhà Hồ là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và văn hóa của Việt Nam trong mối liên quan với các nước trong khu vực vào giai đoạn tiếp theo. Thành nhà Hồ cũng đáp ứng tiêu chí quan trọng là hiện tượng đột khởi về kỹ thuật khai thác, chế tác và xây dựng tòa Hoàng thành bằng đá trong lịch sử kinh thành Việt Nam và khu vực vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15.
Để có được kết quả như ngày hôm nay, là cả một quá trình dài, với sự hợp tác chặt chẽ của các bộ, ngành, các nhà chuyên môn. Nhiều hội thảo, hội đồng khoa học đã được tổ chức bàn thảo về những giá trị văn hóa, lịch sử quan trọng của Thành nhà Hồ. Trong quá trình xây dựng hồ sơ, tỉnh Thanh Hóa cũng mời các chuyên gia của Nhật Bản, Australia sang tư vấn, đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình hoàn thiện. Bản hồ sơ được đệ trình lên Ủy ban di sản thế giới được các nước thành viên đánh giá cao bởi tính khoa học, các giải pháp đồng bộ trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị của di sản. Tất nhiên, Ủy ban di sản thế giới cũng xem xét các yếu tố đối với nước đang phát triển như Việt Nam trong quá trình bảo tồn di tích để có những giải pháp phù hợp với các công ước về bảo tồn di sản.
Bắt đầu từ cuối tháng 11/2006, tỉnh Thanh Hóa thành lập Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ di sản văn hóa thế giới do Phó Chủ tịch tỉnh Vương Văn Việt làm trưởng ban, Sở VHTT Thanh Hóa – cơ quan thực hiện việc xây dựng hồ sơ. Bắt đầu thực hiện từ cuối 2006, bộ hồ sơ có sự góp sức của Cục Di sản văn hóa, Viện Khảo cổ học cùng nhiều nhà nghiên cứu…
Ngày 20/32008, kết quả xây dựng hồ sơ đã được báo cáo tại Thanh Hóa với các “đầu mục” được xây dựng theo quy định của UNESCO như tư liệu, thư viện và hồ sơ khoa học. Tiếp đó, ngày 21/3/2008, tại khu di tích đã diễn ra cuộc công bố quyết định của tỉnh (ra ngày 3/7/2007), thành lập Ban quản lý di tích thành nhà Hồ. Trụ sở ban này đặt ngay tại khu di tích, thuộc thôn Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc. Song song với tiến trình này, tỉnh Thanh Hóa cũng lập quy hoạch bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị di tích. Trong đó, rất đáng chú ý là việc khoanh vùng bảo vệ Đàn tế Nam Giao. Đàn tế này mới được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, sẽ là sự bổ sung với tổng thể giá trị lớn của thành nhà Hồ… Bộ hồ sơ cũng đã được báo cáo trước Thứ trưởng Lê Tiến Thọ và Hội đồng di sản văn hóa của Bộ. Qua quá trình phản biện, góp ý, có một số điểm sẽ được chỉnh sửa, bổ sung.
Hồ sơ xin “ứng thí” của Thành nhà Hồ đã được Cục Di sản văn hóa, Viện Khảo cổ học VN, Sở VH,TT&DL Thanh Hóa hoàn thiện và đệ trình lên UNESCO chính thức vào ngày 22/9/2009. Ngày 29/9/2009, bộ hồ sơ khoa học di sản văn hóa Thành nhà Hồ đã được gửi đến Trung tâm Di sản thế giới tại Paris, Pháp để tham gia đề cử danh mục di sản văn hóa thế giới. Bộ hồ sơ dày 161 trang và 187 trang phụ lục. Ngoài ra còn có 250 bản vẽ; 76 ảnh kỹ thuật số; 76 ảnh slides; phim di sản dài 43 phút… Theo Công hàm của ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam gửi Trung tâm Di sản thế giới tại Paris, Pháp, thành nhà Hồ là một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thế kỷ XIV-XV…
Thuyết minh về thành nhà Hồ – Mẫu 2
Thành Nhà Hồ thuộc địa phận của tỉnh Thanh Hóa ngày nay từng là kinh đô của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407. Đây là một trong những thành lũy bằng đá hiếm hoi còn sót lại tại Đông Nam Á.
Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vì những giá trị văn hóa, lịch sử cùng kỹ thuật xây dựng độc đáo của công trình này mang lại.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, dưới thời vua Trần Thuận Tông. Trong lịch sử, thành còn được biết đến với các tên gọi khác là thành An Tôn , Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Thành được xây dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly lúc ông đương nhậm chức tể tướng dưới thời nhà Trần.
Sau khi thành xây xong, Hồ Quý Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời đô từ Thăng Long (nay là Hà Nội) về Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay cho nhà Trần, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô, và Hồ Quý Ly lấy quốc hiệu là Đại Ngu , tức niềm hạnh phúc, an vui. Tuy vậy triều đại này chỉ kéo dài vỏn vẹn 7 năm, là triều đại ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam .
Thành Nhà Hồ đáp ứng đầy đủ hai tiêu chí về văn hóa mà UNESCO đưa ra để xếp hạng Di sản cho công trình. Tiêu chí thứ hai “Thể hiện các giá trị nhân văn quan trọng và sự ảnh hưởng của chúng qua một thời kỳ lịch sử quốc gia hay trong một khu vực của thế giới, những đóng góp này có tính phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, và cách quy hoạch thành phố”.
Tiêu chí thứ tư “Trở thành ví dụ nổi bật về một loại hình công trình, một quần thể kiến trúc, kỹ thuật hoặc cảnh quan minh họa được giá trị của một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Công trình này được đánh giá cao về mặt kỹ thuật xây dựng các khối đá được cho là có một không hai ở Việt Nam nói riêng và toàn khu vực Đông Á, Đông Nam Á nói chúng vào khoảng thời gian từ cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỷ XV. Các nhà nghiên cứu đánh giá, kiến trúc Thành Nhà Hồ được xây rất khoa học, với các phiến đá lớn được đục đẽo một cách vuông vức, xếp đan xen với nhau theo hình múi bưởi để tránh các rung chấn lớn như động đất.
Đặc biệt là giữa các phiến đá này không hề có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm, vượt qua nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Ngoài ra khối công trình đồ sộ, vững chắc này chỉ được xây dựng vẻn vẹn trong vòng 3 tháng đầu năm 1397.
Theo các tài liệu để lại cùng công việc khảo cổ, nghiên cứu hiện trạng thì quần thể di sản Thành Nhà Hồ bao gồm Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao nằm phía ngoài thành. Trong đó, Hoàng thành là công trình đồ sộ nhất đồng thời nguyên vẹn nhất còn lại cho đến nay.
Toàn bộ mặt ngoài tường thành là sự kết hợp của bốn cổng chính làm từ những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, chồng khít lên nhau. Những khối đá lớn này có phiến dài tới hơn 6 mét, nặng khoảng 20 tấn. Lý giải về cách vận chuyển các khối đá khổng lồ này, các nhà khảo cổ cho rằng người ta đã dùng các hòn bi đá để lăn chuyển chúng.
Những khối đá lớn này có phiến dài tới hơn 6 mét, nặng khoảng 20 tấn khít với nhau mà không hề có bất kỳ chất kết dính nào
Trước kia, bên trong thành còn có nhiều công trình nguy nga như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu,… không thua gì kinh thành Thăng Long . Tuy nhiên, qua khoảng thời gian dài hơn 6 thế kỷ với nhiều sự tác động chủ quan và khách quan đã khiến cho hầu hết các công trình kiến trúc này bị phá hủy hoàn toàn.
Trước kia bên trong thành còn có nhiều công trình nguy nga nhưng đã bị phá hủy
Một trong những bí ẩn lớn liên quan đến công trình là sự mất tích của đầu rồng trên cặp rồng được chạm khắc tỉ mỉ bên trong hoàng thành. Đôi tượng rồng đá này được các nhà sử học đánh giá thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất còn sót lại ở Việt Nam. Chúng có hình dạng thân thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Đôi rồng này còn mang giá trị nghệ thuật chạm khắc đặc thù của thời Trần lúc hưng thịnh.
Có khá nhiều giả thiết về việc lý giải tại sao đầu rồng lại bị biến mất nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận.
Thành Nhà Hồ là di tích lịch sử quan trọng có giá trị cao về mặt văn hóa, kiến trúc thời xưa. Đến với di tích này du khách có cơ hội chiêm ngưỡng sự độc đáo của công trình xưa cũ và tìm hiểu về kỹ thuật công phu này. Đây là điểm đến ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến.
Thuyết minh về thành nhà Hồ – Mẫu 3
Sau 175 năm tồn tại, nhà Trần vốn thịnh trị và nổi danh với nhiều những đấng minh quân tài giỏi và triều thần kiệt xuất, cuối cùng cũng đi và cơn bĩ cực, chịu cảnh diệt vong do vua quan thất đức, bất tài. Nhân cảnh đó một viên quan lớn trong triều là Hồ Quý Ly đã nhân cái chết của Trần Duệ Tông, nổi lên nắm giữ hoàn toàn triều chính, cuối cùng tiếm ngôi nhà Trần lập ra nước Đại Ngu. Tuy tài giỏi, có tham vọng, nhưng Hồ Quý Ly lên ngôi bất chính, vua tôi không đồng lòng, nhân dân còn nhiều dị nghị, thế nên căn cơ không vững, đứng trước âm mưu xâm lược của giặc Minh liền nhanh chóng sụp đổ. Tuy rằng chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn ngủi từ năm 1401 – 1407, thế nhưng bản thân Hồ Quý Ly, cũng như nhà Hồ đã để lại cho lịch sử một công trình kiến trúc vô cùng có giá trị ấy là thành nhà Hồ, biểu trưng cho một thời đại có nhiều biến động trong ngàn năm văn hiến của dân tộc.
Thành nhà Hồ hay còn có các tên gọi khác là thành Tây Đô, thành Tây Kinh, thành Tây Giai, thành An Tôn, vốn là kinh đô của nước Đại Ngu (quốc hiệu nước ta dưới thời Hồ Quý Ly), trong một khoảng thời gian gần 7 năm. Tuy nhiên sau đó, nhà Hồ sụp đổ, tòa thành không còn được sử dụng với mục đích này nữa. Hiện tại di tích này đang nằm trên địa phận 2 xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 45 km. Tuy chỉ được xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi 3 tháng dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly vào khoảng đầu năm 1397, dưới thời vua Thuận Tông, để phục vụ mục đích chính trị của họ Hồ, thế nhưng công trình này đã tồn tại hơn 6 thế kỷ, mà cho đến nay một số đoạn thành vẫn còn giữ nguyên kiến trúc cũ. Nhờ sở hữu kiến trúc bằng đá độc đáo cũng như quy mô lớn, sự vững chãi kiên cố theo thời gian, thành nhà Hồ đã trở thành di tích thành cổ bằng đá hiếm hoi còn sót lại ở Việt Nam, cũng như ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới, có giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng sâu sắc. Năm 2011 thành nhà Hồ đã vinh dự được UNESCO công nhận là di tích văn hóa thế giới, đồng thời được thủ tướng chính phủ xem xét là 1 trong 62 di tích đặc biệt cấp quốc gia, cần phải bảo tồn chặt chẽ.
Về đặc điểm, thành nhà Hồ có kiến trúc bằng đá tảng độc đáo, theo như tiêu chí của UNESCO thì thành nhà Hồ đã “Trở thành ví dụ nổi bật về một loại hình công trình, một quần thể kiến trúc, kỹ thuật hoặc cảnh quan minh họa được giá trị của một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”. Được đánh giá cao về mặt thiết kế, cũng như các kỹ thuật xây dựng tinh tế, khéo léo, gắn liền với sự nghiệp cải cách táo bạo, toàn diện của Hồ Quý Ly và vương triều nhà Hồ. Có thể nhận thấy rằng, thành Tây Đô được dựng ở Thanh Hóa, không phải là một vị trí có địa thế thuận lợi “rồng cuộn hổ ngồi” như kinh thành Thăng Long, thế nhưng về chính trị, quân sự lại là nơi phòng ngự, tấn công tốt, thích hợp cho việc chuẩn bị các thay đổi giữa hai triều đại. Với địa thế sông nước bao quanh, núi non hiểm trở, duy ác, cũng như các công trình thành khác, thành nhà Hồ gồm hai phần chính, thành ngoại còn gọi là La thành, đóng vai trò bảo vệ được đắp bằng 10.000 khối đất, lại trồng thêm tre gai dày đặc, bên trong gồm những hào rộng gần 50m, giúp ngăn chặn sự tấn công bất ngờ của kẻ địch. Phần nội thành về quy mô, toàn bộ khu vực thành có hình dáng gần như vuông, mỗi cạnh dài xấp xỉ 860m, tọa lạc trên một khoảng đất có chu vi 3,5km. Phần chân thành dày tầm 20m, với bốn cửa theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc, mỗi cổng cao tầm 10m. Nói rằng thành nhà Hồ có kết cấu đặc biệt bởi lẽ mặt bên ngoài thành được ghép bằng những khối đá tảng lớn kích thước 2x1x0,7m, bên trong tiến hành đắp bằng đất. Các cổng được xây dựng theo hình cuốn vòm, các khối đá tảng vuông vức được xếp sít nhau theo hình múi bưởi, vô cùng chắc chắn, mà theo các nghiên cứu hiện nay cách xây dựng này rất khoa học, giúp thành chống đỡ được những cơn rung chấn mạnh ví như động đất. Chính vì thế cho đến ngày hôm nay sau hơn 600 năm, trải qua nhiều cuộc bể dâu bom đạn, dù phần ngoại thành, các công điện kiến trúc bên trong đã bị phá hủy gần hết, thì riêng phần tường thành bằng đá, với lối kiến trúc “múi bưởi” này vẫn trường tồn cùng năm tháng. Thêm một chi tiết quan trọng nữa ấy là dù không hề sử dụng bất kỳ chất kết dính nào thế nhưng các phiến đá vôi màu xanh này vẫn liên kết với nhau một cách chặt chẽ, không hề suy chuyển trong ngần ấy thời gian. Đặc biệt với sức người và các kỹ thuật xây dựng thô sơ thời trung đại, việc đẽo gọt chạm khắc tỉ mỉ từng phiến đá nặng tới hàng chục tấn, cộng với việc đưa nó lên những độ cao vài mét rồi xếp thành hình “múi bưởi” quả là một thách thức cơ học lớn. Cũng đem đến cho các nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khảo cổ học cũng như các nhà kiến trúc nhiều suy đoán và câu hỏi xung quanh vấn đề này. Đồng thời bản thân tôi cũng có chút liên tưởng, so sánh về cách xây dựng thành nhà Hồ với việc xây dựng các Kim tự tháp của người Ai Cập cổ đại. Thật rất đáng ngưỡng mộ và thán phục kỹ thuật xây dựng của con người trong lịch sử. Cuối cùng ngoài những phần tường đá còn sót lại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay thì hầu như các kiến trúc khác như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu,… đều đã bị phá hủy chỉ còn sót lại đền Nam Giao được xây bằng đá nằm ở phía trong nội thành.
Thành nhà Hồ tồn tại cho đến ngày hôm nay được đánh giá là một trong những di tích lịch sử quan trọng lưu giữ nhiều những giá trị cả về mặt văn hóa lẫn kiến trúc thời trung đại. Cũng đồng thời là một chứng tích lịch sự quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một giai đoạn có nhiều biến động. Khi nhà Hồ lên nắm ngôi đã mang đến nhiều cải cách táo bạo và toàn diện về mọi mặt, tuy nhiên việc tiếm quyền bất chính đã khiến triều đại này nhanh chóng sụp đổ, để lại bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ quân vương thời kỳ sau này. Tuy có thời gian tồn tại ngắn ngủi 7 năm thế nhưng vương triều nhà Hồ vẫn để lại trong lịch sử dân tộc nhiều dấu ấn quan trọng, đặc biệt là ý thức giữ gìn độc lập của dân tộc thông qua việc xây dựng một công trình kiến trúc độc đáo, vững chắc có nhiều giá trị quan trọng trong công cuộc chống quân xâm lược, phát triển kinh tế văn hóa chính trị trong suốt triều đại nhà Hậu Lê tại miền Trung.
Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc lịch sử độc đáo, cần được bảo tồn và giữ gìn một cách nghiêm túc, chặt chẽ. Nếu ai đã có dịp ghé thăm vùng đất Thanh Hóa, thì đừng tiếc chi một lần đến chiêm ngưỡng thành tựu kiến trúc bằng đá hiếm hoi may mắn còn sót lại này, để hiểu thêm về lịch sử cũng như nền văn hóa phong phú muôn màu của dân tộc Việt Nam ta nhé các bạn.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về thành nhà Hồ (Dàn ý + 4 mẫu) Thuyết minh danh lam thắng cảnh lớp 8 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.