Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 6: Cảm nghĩ về nhân vật Dượng Hương Thư trong bài Vượt thác Dàn ý & 4 bài văn mẫu lớp 6 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Đoạn trích Vượt thác được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 6. Khi đọc đoạn trích này, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với hình ảnh trung tâm của tác phẩm – Dượng Hương Thư.
Sau đây, Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Cảm nghĩ về nhân vật Dượng Hương Thư trong bài Vượt thác, mời các em học sinh cùng tham khảo nội dung chi tiết được đẳng tải sau đây.
Dàn ý cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ qua và Dượng Hương Thư.
– Cảm xúc của em về nhân vật.
2. Thân bài
– Vẻ đẹp ngoại hình của dượng Hương Thư khi vượt thác:
- Như một pho tượng đồng đúc.
- Các bắp thịt cuồn cuộn.
- Hai hàm răng gắn chặt, quai hàm bạnh ra.
- Cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào.
- Giống như một hiệp sĩ của Trường sơn oai linh hùng vĩ.
=> Khắc hoạ vẻ đẹp rắn chắc, dũng mãnh của nhân vật, biểu thị sức mạnh, sự cố gắng hết sức tập trung tất cả tinh thần và nghị lực để chiến đấu với dòng thác.
– So sánh với dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ, thực chất đã mang lại hiệu quả bất ngờ.
=> Nó không những chỉ đối lập và thống nhất hai tư thế, hai hình ảnh khác nhau của cùng một con người mà còn hé mở cho người đọc biết thêm những phẩm chất đáng quý của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc sống đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trong công việc, trong khó khăn thử thách.
3. Kết bài
– Nêu được vẻ đẹp dũng mãnh, kiên cường của con người khi chiến đấu với thiên nhiên để có cái ăn cái mặc.
– Cảm nghĩ của người viết về nhân vật dượng Hương Thư.
Cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư – Mẫu 1
“Vượt thác” trích trong tác phẩm “Quê nội” của nhà văn Võ Quảng. Với đoạn trích này, tác giả đã đưa người đọc đến với khung cảnh thiên nhiên vừa hiền hòa vừa hung bạo dọc hai bên dòng sông Thu Bồn. Nhưng nổi bật hơn cả, tác giả để lại ấn tượng sâu sắc nhất là hình ảnh những người lao động nơi đây mà điểm nhấn nằm ở chân dung dượng Hương Thư khỏe mạnh, oai phong trong quá trình vượt thác.
Đoạn trích kể về công cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, vất vả mà cũng thật oai phong, hùng dũng của dượng Hương Thư. Để chuẩn bị cho hành trình vượt thác, dượng Hương đã nấu cơm ăn trước cho chắc bụng, những chiếc sào tre bịt đầu sắt đã sẵn sàng. Ngay khi bước vào hành trình, dượng đã ngay lập tức phải đối đầu với con thác lớn, nước to cứ thế chồm lên. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh dượng Hương Thư đánh trần phóng chiếc sào đã chuẩn bị xuống nước “nghe tiếng xoạc”, cả người dượng ra sức cản lại thế nước dữ, đến nỗi chiếc sào cũng bị uốn con. Con thuyền thoáng chút sợ hãi trước sức mạnh ghê gớm của thác nước cứ “chực trụt xuống quay đầu lại” . Biện pháp nhân hóa khiến cho cả câu văn trở nên sinh động hẳn lên, không chỉ mô tả sự lo lắng của con thuyền mà đó còn chính là nỗi lo lắng của dượng. Liệu sức người có thể địch nổi lại với sức nước? Chỉ mất vài giây ngắn ngủi, dượng Hương đã lấy lại tư thế làm chủ, đây có lẽ là đoạn văn hay nhất, đẹp nhất để miêu tả về dượng Hương Thư: “Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố lấn lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa, ghì lên ngọn sào như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ” . Chỉ trong một vài câu văn ngắn tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp so sánh: nhanh như cắt, như pho tượng đồng đúc, như hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ, mức độ so sánh ngày càng tăng tiến, khẳng định vẻ đẹp của dượng Hương Thư. Dượng Hương mang trong mình vẻ đẹp của sự nhanh nhẹn, khỏe mạnh chẳng khác nào một người hiệp sĩ vĩ đại đang chiến đấu chống lại cái ác, cái xấu. Không chỉ vậy, Võ Quảng còn rất tinh tế khi sử dụng ngôn từ với việc sử dụng các động từ mạnh: “thả sào, rút sào, lấn lên, các từ miêu tả nhân vật: cuồn cuộn, cắn chặt, bạnh ra, nảy lửa…” càng chạm khắc rõ nét hơn nữa vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của người kị mã trong quá trình vượt thác. Dượng Hương Thư khi vượt thác khác hẳn với khi ở nhà, lúc nào cũng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng dạ vâng. Bằng kinh nghiệm dày dặn, bằng sức mạnh phi thường dượng Hương Thư và mọi người đã chiến thắng dòng nước dữ, vượt thác thành công. Mặc dù thở không ra hơi nhưng ai cũng sung sướng vứt sào.
Võ Quảng đã vận dụng, kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật. Trước hết là những hình ảnh so sánh sinh động: “như pho tượng đồng đúc, như hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. Ngoài ra lớp ngôn ngữ giàu chất tạo hình: “cuồn cuộn, nảy lửa…” sử dụng hệ thống động từ đa dạng phong phú; cùng với đó là việc sử dụng linh hoạt các thành ngữ: “nhanh như cắt”… đã giúp tác giả khắc họa thành công vẻ đẹp rắn rỏi, nhanh nhẹn, gan dạ trong quá trình vượt thác của dượng Hương Thư.
Bằng con mắt quan sát tinh tường, sử dụng linh hoạt ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật Võ Quảng đã xây dựng thành công chân dung dượng Hương Thư – đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người lao động Việt Nam. Họ có thể nhu mì, hiền lành khi ở nhà nhưng lại là những người anh hùng dũng cảm, nhanh nhẹn, quyết liệt trong cuộc việc, trước mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Qua nhân vật này, tác giả còn thể hiện niềm tự hào, ngợi ca sức mạnh của con người lao động trước thiên nhiên hùng vĩ.
Cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư – Mẫu 2
Văn bản “Vượt thác” được trích từ chương XI truyện “Quê nội” (1974) của Võ Quảng – nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Đoạn trích đưa ta về cảnh thiên nhiên sông nước trên sông Thu Bồn trong một cuộc vượt thác gian nan, vất vả của con người. Tác phẩm đã đưa bạn đọc cùng với hành trình của con thuyền do dượng Hương Thư chỉ huy, từ vùng đồng bằng trù phú, vượt qua những thác ghềnh ở vùng núi để tới thượng nguồn lấy gỗ về dựng trường học cho làng Hoà Phước sau Cách mạng 1945 thành công.
Vượt thác là bức tranh thiên nhiên trên dòng sông Thu Bồn. Bức tranh đó được miêu tả có sự thay đổi theo từng chặng đường của con thuyền, theo điểm nhìn của tác giả. Nhà văn đã chọn vị trí quan sát là ở trên thuyền nên có thể nhìn thấy cảnh quan hai bên bờ cũng như dòng nước trên sông: “con thuyền đi đến đâu thì cảnh hiện ra đến đấy”. Có thể nói đó là một vị trí quan sát thích hợp nhất để tả cảnh. Tác giả đã tìm ra được những nét tiêu biểu, đặc sắc của từng vùng con thuyền đã đi qua: “vùng đồng bằng êm đềm thơ mộng, trù phú bao la với những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít; đoạn sông có nhiều thác dữ thì từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn. Khi con thuyền vượt qua thác dữ thì nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra”.
Ở đây, cảnh vật được nhân hoá, so sánh khiến cho bức tranh thiên nhiên sông nước có hồn, sinh động và gợi cảm. Con thuyền như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp… Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn… Rồi thuyền vượt qua khỏi thác cổ Cò. Dòng sông cứ chảy quanh co dọc những núi cao sừng sững. Nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa là hình ảnh những cây cổ thụ trên bờ sông mà tác giả đã miêu tả đến hai lần ở đoạn đầu và cuối bài văn. Khi con thuyền đã qua đoạn sông êm ả, sắp đến chỗ có nhiều thác dữ thì dọc bờ sông hiện ra những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước như là cảnh báo con người: phía trước là khúc sông có nhiều thác dữ, cần phải chuẩn bị tinh thần để vượt qua. Đến khi con thuyền vượt qua nhiều thác dữ thì dọc sườn núi lại hiện ra. Những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô con cháu tiến về phía trước. Một hình ảnh so sánh đầy sức sáng tạo nhưng vẫn không mất đi độ chính xác và gợi cảm. Trong cách nhìn của người vượt thác, những cây to so với những cây thấp nhỏ lại giống như những cụ già đang hướng về phía con cháu họ mà động viên, thúc giục họ tiến về phía trước. Ẩn sau cách nhìn ấy là tâm trạng phấn chấn của những con người vừa vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm.
Điều đặc sắc hơn là những cây cổ thụ đều được ví với người để biểu hiện thêm những tầng nghĩa mới. Song điều đặc biệt ở đây là mỗi hình ảnh so sánh đều có nét riêng độc đáo không gây sự nhàm chán. Cho nên, nếu hình ảnh ở đoạn cuối văn bản là một hình ảnh so sánh rõ ràng (có từ so sánh “như”) thì hình ảnh ở đoạn trước (đầu văn bản) là một sự so sánh kín đáo, được thể hiện bằng một cách nhân hoá (qua cái dáng đứng trầm ngâm lặng nhìn – đặc điểm chỉ có ở con người để miêu tả cho những chòm cổ thụ).
Khung cảnh thiên nhiên dù có đẹp đến đâu cũng chỉ là một cái nền để tôn vẻ đẹp của con người bởi con người bao giờ cũng là trung tâm của cảnh. Nhà văn đã đặc tả nhân vật dượng Hương Thư với những chi tiết đầy ấn tượng thể hiện một quyết tâm lớn để chiến thắng hoàn cảnh. Dượng được so sánh giống “như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào, giống như một hiệp sĩ của Trường sơn oai linh hùng vĩ”. Biện pháp so sánh được sử dụng nối nhau liên tiếp trong đoạn đã khắc hoạ vẻ đẹp rắn chắc, dũng mãnh của nhân vật, biểu thị sức mạnh, sự cố gắng hết sức tập trung tất cả tinh thần và nghị lực để chiến đấu với dòng thác. Người đọc ngỡ như hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc phi thường của những Đăm Săn, Xinh Nhã bằng xương, bằng thịt đang hiển hiện ra trước mắt. Phải chăng thông qua nghệ thuật so sánh tài tình nhà văn làm nổi bật cái “thần” nhằm tôn vinh hình ảnh con người trước thiên nhiên rộng lớn?
Võ Quảng còn khéo léo đưa ra nhận xét: “Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ” đem lại hiệu quả bất ngờ. Nó không những chỉ đối lập và thống nhất hai tư thế, hai hình ảnh khác nhau của cùng một con người mà còn hé mở cho người đọc biết thêm những phẩm chất đáng quý của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc sống đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trong công việc, trong khó khăn thử thách. Đoạn văn là sự thống nhất cao độ và thành công tột bậc giữa tả thiên nhiên và tả người, tả chân dung con người trong hoạt động, giữa kể và tả với hai biện pháp nghệ thuật phó biến: nhân hoá và so sánh.
Võ Quảng đã thành công trong việc thể hiện chủ đề của bài văn qua cảnh vượt thác của dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao. Nhà văn ca ngợi cảnh thiên nhiên miền trung đẹp, hùng vĩ, ca ngợi con người lao động Việt nam hào hùng mà khiêm nhường, giản dị.
Cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư – Mẫu 3
Võ Quảng là một nhà văn nổi tiếng chuyên viết các tác phẩm dành cho lứa tuổi thiếu nhi. “Vượt thác” là một đoạn trích ngắn nằm trong chương thứ XI, của truyện “Quê nội”, một trong các tác phẩm thành công nhất đưa Võ Quảng đến với nhiều độc giả Việt Nam. Trong đoạn trích ngoài việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên dọc hai bên bờ con sông Thu Bồn, thì hình tượng nhân vật Dượng Hương Thư cũng hiện lên ấn tượng với những vẻ đẹp mạnh mẽ trong lao động.
Đặc sắc của đoạn trích chính là việc tác giả miêu tả cảnh thiên nhiên song hành cùng với công cuộc đưa thuyền vượt ngược sông Thu Bồn do dượng Hương Thư chỉ huy. Vẻ đẹp của con người trong công cuộc lao động đã hiện lên thật nổi bật trước thiên nhiên rộng lớn. Suốt đoạn trích ta thấy cảnh thiên nhiên hai bên bề trải dài với những cảnh tượng tươi đẹp, hùng vĩ và khoáng đạt, thu hút tầm mắt người trên thuyền và cả độc giả. Thế nhưng hình tượng trung tâm của đoạn trích vẫn là nhân vật dượng Hương Thư trong công cuộc chèo ngược dòng, thể hiện rất rõ khuynh hướng sáng lấy vẻ đẹp của con người làm trọng tâm, cảnh thiên nhiên trở thành bệ đỡ khẳng định tầm vóc của con người trong văn học hiện đại. Dượng hẳn là một người chèo thuyền có kinh nghiệm, trong lần ngược dòng này anh thật ra dáng một người chỉ huy, khác hẳn với cái phong thái mềm mỏng “nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ ở nhà”. Biết được rằng công cuộc ngược sông Thu Bồn sẽ có nhiều vất vả thế nên đến Phường Rạch dượng đã sai người nấu cơm để ăn cho chắc dạ, phòng cho chuyện “mùa nước còn to, có khi suốt buổi phải đứng chống liền tay không phút hở”. Khi đã ăn uống no đủ, dượng Hương Thư với vị thế của người cầm đầu, vô cùng mạnh mẽ, dứt khoát phóng chiếc sào tre đầu bịt sắt của mình thật mạnh xuống nước, tiếng “xoạc” ngọt bén ấy là minh chứng cho cái sức mạnh của dượng lúc phóng sào. Và không chần chừ lâu, dượng đã dùng sức, lấy thế vững vàng trụ lại cho chiếc thuyền khỏi trôi xuôi dòng, để cho chú Hia và thằng Cù cắm sào xuống. Trong mùa nước lớn, dòng chảy của con sông Thu Bồn lại càng mạnh, việc chèo thuyền ngược dòng quả là hết sức khó khăn và tốn sức thành ra ai nấy cũng phải có kinh nghiệm, sự nhanh tay và mạnh mẽ phối hợp với nhau “những động tác rút sào thả sào rập ràng nhanh như cắt”, không khỏi khiến người đọc thán phục và thấy được sự cấp bách, cam go trong lao động của những người chèo thuyền trên sông nước.
Đặc biệt là nhân vật dượng Hương Thư, vừa là người có sức mạnh nhất, lại là người chỉ huy thành thử dượng phải có sự nỗ lực và tập trung hơn nhiều lần. Vẻ đẹp của nhân vật trong đoạn trích được miêu tả rất ấn tượng thông qua cách hình ảnh tả thực và so sánh thú vị. Sự rắn chắc, vững chãi, mang hơi thở sông nước hiện ra thông qua việc so sánh với “pho tượng đồng đúc”, vẻ đẹp sức mạnh thể chất thể hiện qua chi tiết tả thực “các bắp thịt cuồn cuộn”. Đặc biệt sự uy dũng trong lao động, tinh thần quyết tâm, kiên cường của nhân vật được bộc lộ rất rõ nét trong hình ảnh “hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, đôi mắt nảy lửa ghì ngọn sào…”. Thông qua đó người đọc còn thấy rõ được sự nặng nhọc, khó khăn vô cùng của công việc chèo thuyền ngược sông mà không phải ai cũng đủ sức mạnh cũng như tinh thần mạnh mẽ để làm được. Còn đối với dượng Hương, công việc chèo đò này cũng giống như chuyện ra chiến trường chinh chiến, sông nước chính là là giang sơn của dượng, còn bản thân của dượng trên đó bỗng lột xác, phô hết tài năng, sức mạnh để chiến đấu, lấy sào làm vũ khí, khí thế dũng mãnh như một “hiệp sĩ Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. Tầm vóc của con người trở nên vĩ đại, tư thế hào hùng, mạnh mẽ trong cuộc chiến với thiên nhiên để giành kế sinh nhai.
Với cách miêu tả giản dị, từ ngữ trong sáng, sử dụng các hình ảnh, biện pháp so sánh vừa khái quát vừa gợi cảm Võ Quảng đã xây dựng nhân vật dượng Hương Thư mang những vẻ đẹp ấn tượng, mạnh mẽ trong công cuộc lao động, từ ngoại hình, kinh nghiệm đến tư thế khi đứng trước sự dữ dội của thiên nhiên. Khẳng định tầm vóc của con người trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên vĩ đại, đó là một trận chiến cam go, đầy khó khăn, thế nhưng con người vẫn luôn chiến đấu không ngừng nghỉ và giành phần thắng về mình.
Cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư – Mẫu 4
Bài văn “Vượt thác” trích trong chương XI của truyện “Quê nội” đã miêu tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn. Đồng thời, Võ Quảng đã làm nổi bật vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ thông qua nhân vật dượng Hương Thư.
Nhà văn đã khắc họa hình ảnh dượng Hương Thư là một tay chèo có kinh nghiệm. Hình ảnh dượng khi vượt thác khác hẳn với lúc ở nhà “nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ ở nhà”. Có lẽ vì hiểu được sự vất vả của công việc mà dượng Hương “đã sai người nấu cơm để ăn cho chắc dạ”, phòng cho chuyện “mùa nước còn to, có khi suốt buổi phải đứng chống liền tay không phút hở”. Sau khi chuẩn bị xong xuôi, dượng Hương Thư trở lại với tư thế của người cầm đầu, vô cùng mạnh mẽ, dứt khoát phóng chiếc sào tre đầu bịt sắt của mình thật mạnh xuống nước. Tiếng “xoạc” ngọt bén ấy là minh chứng cho cái sức mạnh của dượng lúc phóng sào. Dòng sông Thu Bồn trong mùa nước lớn chảy càng mạnh. Việc chèo thuyền ngược dòng thật sự là hết sức khó khăn và cần phải có sự phối hợp linh hoạt “những động tác rút sào thả sào rập ràng nhanh như cắt”, không khỏi khiến người đọc thán phục và thấy được sự cấp bách, cam go trong lao động của những người chèo thuyền trên sông nước. Hình ảnh dượng Hương Thư khi vượt thác được nhà văn khắc họa với những nét đẹp. Đó là sự rắn chắc, vững chãi, mang hơi thở sông nước hiện ra thông qua việc so sánh với “pho tượng đồng đúc”, vẻ đẹp sức mạnh thể chất thể hiện qua chi tiết tả thực “các bắp thịt cuồn cuộn”. Đặc biệt sự uy dũng trong lao động, tinh thần quyết tâm, kiên cường của nhân vật được bộc lộ rất rõ nét trong hình ảnh “hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, đôi mắt nảy lửa ghì ngọn sào…”. Từ đó người đọc thấy được sự nặng nhọc, khó khăn vô cùng của công việc chèo thuyền ngược sông mà không phải ai cũng đủ sức mạnh cũng như tinh thần mạnh mẽ để làm được. Với dượng Hương Thư, công việc chèo đò này cũng giống như chuyện chinh chiến. Sông nước chính là chiến trận của dượng. Dượng đã phô diễn hết tài năng, sức mạnh để chiến đấu, lấy sào làm vũ khí, khí thế dũng mãnh như một “hiệp sĩ Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. Điều đó khiến cho người đọc không khỏi bất ngờ trước sự thay đổi của dượng Hương Thư.
Như vậy, người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh nhân vật dượng Hương Thư trong văn bản “Vượt thác” với tầm vóc, sức mạnh lớn lao, kì vĩ của con người lao động trước thiên nhiên, tư thế làm chủ đất.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 6: Cảm nghĩ về nhân vật Dượng Hương Thư trong bài Vượt thác Dàn ý & 4 bài văn mẫu lớp 6 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.