Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 7 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 12 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài bao gồm 7 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Chất thơ trong Vợ chồng A Phủ đã được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Và để hiểu rõ về chất thơ, mời các bạn cùng theo dõi 7 bài văn mẫu sau đây nhé. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, phân tích Mị trong đêm cứu A Phủ.
Dàn ý phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” với chất thơ độc đáo
II. Thân bài:
* Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
- Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù.
- Chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi rẻo cao Tây Bắc.
- Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
* Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người
– Xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước, quay sợi…
– Ngày Tết: Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong.
- Không khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng Tây Bắc khi “trai gái tìm nhau để tỏ tình”, chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu…
- Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo – cầu nói truyền tải ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu thẳm, vượt qua dòng chảy thời gian, trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao đôi trai gái miền sơn cước.
* Chất thơ trong con người – Mị
- Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và rơi vào cảnh tăm tối. Những tưởng Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi hết cuộc đời song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự do và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
- Vẻ ngoài của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực bên trong đó lại tiềm tàng 1 sức sống vô cùng mãnh liệt.
- Âm thanh tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp
=> Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn cản sự lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan tất cả.
* Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
- Tô Hoài sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ màu sắc vừa rất đỗi nên thơ.
- Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vô hình.
- Âm điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm chảy trôi trong tâm trạng
- Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện.
III. Kết bài:
– Đánh giá lại giá trị tác phẩm với nền văn học
Chất thơ trong Vợ chồng A Phủ cực hay – Mẫu 1
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, cũng là một trong những truyện ngắn Việt Nam xuất sắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc, tái hiện số phận đau khổ của những người nông dân nghèo miền núi;đồng thời ngợi ca sức sống và khát vọng tự do của người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ trong cách mạng.
Nói về truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, có nhận định cho rằng: “Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm”. Đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Quả thực “Chất thơ” trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực. Nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng lại trong một thể thống nhất.Nếu hiện thực là môi trường của những cái vốn có, hiện có thì vẻ đẹp lãng mạn là ước mơ, là lí tưởng để nâng đỡ con người vượt qua đời sống hiện thực vốn trần trụi.
Chất thơ trong truyện ngắn đã được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn
Tô Hoài đã vẽ nên bức tranh về quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch… Trái lại, người dân vùng núi miền Tây “cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới”. Đó một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao, cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Nhịp sống của con người “hòa thuận” một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai.
Nhà văn đã có những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết. Khi “các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho”, người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”, nhưng vẫn gợi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Hình ảnh những chiếc váy hoa “đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ” trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi “lấp ló ngoài đầu núi” mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Hình ảnh tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm: “trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Có cả bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi “người nhảy đồng, người hát”…Bằng lối “điểm xuyết” như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.
Từ dòng hồi ức của Mị, có thể cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, lúc đó, kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ… thành người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ.
Nhưng bất chấp số phận cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm hồn Mị: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi […] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng […] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường […] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng. Người đàn bà câm lặng suốt bao năm tháng giờ đây đang ngồi “nhẩm thầm bài hát” của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: “Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Trong khoảnh khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp. Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị – người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Mị dù qua bao bị đày đọa đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức sống và khát khao hạnh phúc mãnh liệt.
Tô Hoài cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu “như biết co duỗi nhịp nhàng” (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề; có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn tả những biến động bất ngờ. Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau một cách linh hoạt mang đến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu. Tất cả làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn.
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Mày có con trai con gái rồi, Mày đi là nương. Ta chưa có con trai con gái, Ta đi tìm người yêu”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng.
Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn phim với góc quay thật rộng: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa… Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Gần rồi xa, cao và thấp, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ… của núi rừng Tây Bắc.
Nói về truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài từng tâm sự: “Thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên”.Chính những năm tháng không bao giờ quên ấy đã cho Tô Hoài chất liệu thấm đẫm chất thơ khi miêu tả thiên nhiên và con người Tây Bắc. Với sự gắn bó sâu nặng của mình với mảnh đất này, Tô Hoài đã truyền cho người đọc những rung cảm sâu xa với cảnh, với người bằng lối văn xuôi thấm đẫm chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho ngôn ngữ văn chương thấm đẫm chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Chất thơ trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 2
Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn “sinh ra để viết” (Tế Hanh). Hơn sáu mươi năm cầm bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiều thể loại – truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, hồi kí,… Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và bản thân nhà văn tâm đắc nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn hút của tác phẩm này, người đọc nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của các dân tộc miền núi; khả năng quan sát tinh tường, lối trần thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một người cầm bút từng trải, sắc sảo; tài nghệ phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi dào;… Nhưng tôi vẫn nghĩ, điều thú vị nhất là ở chỗ, Tô Hoài đã mang được vào truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc.
Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi: “Vâng, đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tôi cảm thấy mà chưa phân tích được”. Theo ông, những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị “ngoài tài liệu và trên cả sự sáng tạo”. Ở đây, tác giả Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của nhiều nhà văn lớn: A.Puskin từng ví chất thơ trong văn xuôi như “chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo”; L. Tôn-xtôi không chấp nhận ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Thậm chí, K. Pau-tốp-xki còn khẳng định rằng: “Văn xuôi là sợi cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả”… Cũng chính họ – các nhà văn đích thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho người đọc hiểu thế nào là chất thơ trong văn xuôi. Đó có thể là những cánh đồng Nga, tâm hồn Nga hiển hiện trên trang văn Puskin; là lời thì thầm của cây sồi mùa đông, là hình ảnh người thiếu nữ muốn bay lên cùng ánh trăng (L. Tôn-xtôi) hay giai điệu ngọt ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của Âm nhạc Véc-đi, Lắng quả thông(Pau-tốp-xki),… Cũng có thể là khí nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi cát bụi “quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê hương này” (Thạch Lam); hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, khao khát,… được đánh thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành (Nam Cao)… Chất thơ có khi đọng lại trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm đượm trong bức tranh đời sống hay lan toả vào câu chữ…
Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu “đọc vội” cũng có thể thấy được sự phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của tác giả dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được “tường minh” bằng cốt truyện với sự tương phản quen thuộc của hai phần đời. Lối kể truyền thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa có gì là “đột phá”… Nhưng muốn nắm bắt được những ý thơ toát lên từ cảnh sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ phải đọc chậm, đọc sâu.
Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể “theo kịp” ngòi bút của nhà văn khi vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không đến trong làn mưa bụi giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với những rừng đào, rừng mận tưng bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi người ta nghĩ tới mùa xuân Tây Bắc. Nó không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch… Trái lại, người dân vùng núi miền Tây “cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kê ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới”. Nhịp sống của con người “hòa thuận” một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Khi “các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho”, người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”, nhưng vẫn gọi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Ngòi bút của nhà văn chỉ phát qua vài sắc màu đậm chất địa phương, và âm thanh quen thuộc của đời thường cũng đủ khiến lòng người háo hức không kém gì đám trẻ “đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Hình ảnh những chiếc váy hoa “đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ” trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi “lấp ló ngoài đầu núi” mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm: “trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Có cả bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi “người nhảy đồng, người hát”… Bằng lối “điểm xuyết” như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.
Đọc sâu để “đầu và tim” (theo cách nói của Nguyễn Tuân) có thể cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Một A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không họ hàng thân thích mà lớn lên vẫn là chàng trai tài khéo, mạnh mẽ, táo bạo của núi rừng: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Dẫu nghèo khó, “Tết đến […] chẳng có quần áo mới như nhiều trái khác […] chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ”, A Phủ vẫn mang khèn, sáo đi tìm người yêu. vẻ hoang sơ của những cánh rừng, vóc dáng hiên ngang của những ngọn núi miền Tây như đã hun đúc cho chàng trai này tính cách bướng bỉnh, gan góc và lòng ham sống mãnh liệt. Nó trao cho A Phủ sức mạnh để đối mặt với bạo lực, cường quyền; vượt lên những nỗi hèn, nỗi sợ truyền kiếp để giành lại cuộc sống tự do…
Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị – người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Tôi cứ nghĩ về nhân vật này như cô Tấm miền Tây Bắc – bị đày đọa đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức sống. Diễn biến hai cuộc hồi sinh của tâm hồn Mị xứng đáng được liệt vào hàng những trang văn giàu ý thơ nhất của Tô Hoài.
Cuộc hồi sinh thứ nhất diễn ra trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài. Lúc đó, kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ… thành người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ. Cô vẫn sống nhưng đã mất dần những dấu hiệu của một con người: không giao tiếp, không xúc cảm và suy nghĩ, không kí ức, “chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại” như con trâu phải nhớ luống cày, con ngựa phải nhớ đường đi. Mị mất cảm giác về thời gian, không gian; mất luôn cả ý thức về sự tồn tại của chính mình. Với cô, thế giới bên ngoài chỉ còn là một ô vuông bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng” không biết là sương hay là nắng, là sáng hay là chiều. Mị cũng nghĩ mình sẽ lặng lẽ “ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”… Nhưng bất chấp số phận cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm hồn Mị: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi […] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng […] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường […] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng Người đàn bà câm lặng suốt bao năm tháng giờ đây đang ngồi “nhẩm thầm bài hát” của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: “Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Trong khoảnh khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp. Tâm hồn Mị đã hồi sinh. Cô lại ý thức được về bản thân mình, cảm nhận được nguồn sức sống đang trào dâng: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Người phụ nữ đang chết mòn trong tuyệt vọng lại muốn được sống cuộc sống có niềm vui, có tự do: “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi”. Trái tim cô không còn “quen khổ” nữa mà thấm thía hơn bao giờ hết nỗi bất hạnh của đời mình: “Huống chi A sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Cảm biết được nỗi đau, biết phẫn uất – Mị trở lại là người con gái mạnh mẽ, giàu tinh thần phản kháng của ngày xưa! Kể từ giây phút “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn”, Mị đã biến thành một con người khác. Cô không chỉ khơi ngọn đèn làm sáng căn buồng mờ tối mà còn thắp lên ngọn lửa của tình yêu cuộc sống trong chính lòng mình! Đi chơi Tết đối với Mị chính là một hành động “nổi loạn” để chấm dứt kiếp tù nhân, giành lại quyền được sống như một con người. Thậm chí, cá lúc bị A Sử trói đứng vào cột nhà, lòng MỊ vẫn nồng nàn, tha thiết nhớ, vẫn đắm trong tiếng gọi yêu thương; tiếng sáo “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”… Khát vọng tình yêu và hạnh phúc đã là nguồn sức mạnh kì diệu nuôi dưỡng tâm hồn MỊ.
Cuộc hồi sinh lần thứ hai đã không được báo trước bằng bất kì “tín hiệu” nào (như không khí tưng bừng của mùa xuân, men rượu say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn tình,…). Nó đến bất chợt, bất ngờ – với người đọc và với cả chính bản thân Mị. Bởi vì, sau đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn, bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với xung quanh “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Cô không còn tìm được chút hơi ấm nào từ cuộc sống. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì cái lạnh của những đêm đông trên núi cao mà còn vì sự buốt giá của lòng mình: “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần”. MỊ thờ ơ, vô cảm với chính mình và với mọi sự xung quanh. Có đêm, A Sử bắt gặp, đánh MỊ ngã ngay xuống cạnh bếp nhưng đêm sau cô vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Tôi có cảm giác nếu A Sử đánh chết Mị bên bếp lửa, thì cô cũng sẽ lặng thinh và thờ ơ như thế. Thân còn chẳng thiết) nên khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”!
Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình trước một thử thách lớn. Làm sao nhà văn lại khiến người đọc tin rằng, từ trạng thái vô cảm kia, Mị có thể thức tỉnh, cắt dây trói của A Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao ông có thể tìm được “chìa khoá” để mở lại cánh cửa của một cõi lòng đã đóng chặt và cơ hồ đã chết? Vì thế, không ít lần tôi ngẫm đi ngẫm lại cái câu văn tả “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Không phải là nước mắt khiếp sợ của kẻ hèn nhát hay giọt lệ van xin, cầu khẩn lòng thương hại. Dòng nước mắt kia chất chứa nỗi đau đớn, uất hận thầm lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh, có thừa lòng can đảm mà đành bất lực trước cái chết oan ức, phi lí. Nó đập mạnh vào trái tim Mị – trái tim dường như chỉ còn nỗi đau. Cô bừng tỉnh trong mối đồng cảm sâu xa với người cùng chung cảnh ngộ đau thương, uất hận: “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước. A Sử trói Mị, MỊ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Lúc trước, miêu tả cảnh Mị bị trói đứng, Tô Hoài nhắc nhiều đến những đau đớn về thể xác: “tay chân đau không cựa được […] khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức […] cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt […] Sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã sụp xuống […] Mị quên cả đau, đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được”. Nỗi đau thể chất này, thời gian có thể làm nhòa đi nhưng nỗi đau tinh thần kia thì vẫn hằn sâu trong tâm trí, khi con người bị tước đoạt đến cả cái quyển đưa tay lên lau những giọt nước mắt của chính mình! Từ chỗ biết thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa, thương cảm cho bao kiếp người bị đày đọa: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bất mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Cùng với tình thương, trong lòng MỊ sống dậy cả lòng căm thù, sự phẫn nộ: “Chúng nó thật độc ác”. Với A Phủ, Mị chia sẻ nỗi đau đớn bằng cả trái tim vì chính cô đã từng biết thế nào là “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” trên cây cột trói người. Đột nhiên, nhưng cũng là tự nhiên, tất yếu với một con người giàu “năng lực” yêu thương, Mị xót xa cho A Phủ hơn chính bản thân mình: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế”.Trong khoảnh khắc, người con gái có tâm hồn trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã lại trở về! Bấy nhiêu cảm xúc trỗi dậy khiến MỊ không cảm thấy sợ hãi cả khi tưởng tượng mình phải trói thay A Phủ. Bằng sức mạnh của tình yêu thương, sự đồng cảm, lòng vị tha, Mị đã vượt lên nỗi sợ cường quyền, cắt dây trói cứu A Phủ, để rồi lòng ham sống mãnh liệt lại giúp cô vượt qua nỗi ám ảnh thần quyền, tự cứu chính mình… Vẫn là cái quy luật muôn thuở của tình người bất diệt “Thương người như thể thương thân”, nhưng qua ngòi bút Tô Hoài, nó đã mang đậm sắc màu riêng của tính cách, tâm hồn con người Tây Bắc – chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, sâu sắc; lặng lẽ mà quyết liệt trong khát vọng sống, khát vọng tự do.
Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ cũng gắn liền với một Tô Hoài đặc biệt chú trọng đến chuyện “tinh thông về chũ”. Ông từng tâm niệm và ao ước: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Tôi đã thấy những “hạt ngọc” như thế lấp lánh trong Vợ chồng A Phủ. Công phu dùng chữ của tác giả hiện rõ qua lời kể, lối miêu tả, nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật,… Từ đối thoại, độc thoại đến những đoạn ngôn ngữ nửa trực tiếp,… chưa bao giờ thấy gợn lên sự thiếu hài hòa giữa lai lịch, vốn sống, tâm trạng và tính cách,… với lời ăn tiếng nói của nhân vật. Có những câu nói chỉ bớt đi một từ thôi (chúng tôi in đậm), nó đã không còn là cách nói riêng của người miền cao – mộc mạc, đầy hình ảnh và cảm xúc chân thật, tự nhiên: lời khen ngợi A Phủ của các cô gái trong làng: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”; lời của người cha già hiểu con, thương con mà đành bất lực: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? […] Không được, con ơi!” hay tiếng vọng đau đớn vang lên từ tâm trí Mị, nhắc nhở về nỗi tủi nhục, cay đắng đến tận cùng của kiếp nô lệ: “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”… Màu sắc địa phương đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ làm nên vẻ sinh động, độc đáo của các nhân vật.
Tác giả Vợ chồng A Phủ cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu “như biết co duỗi nhịp nhàng” (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề: tả kiếp đàn bà như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi” trong nhà thống lí (“Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”); tả cảnh hành hạ người dã man, quái gở (“Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”),… Có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn tả những biến động bất ngờ: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. […] Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh”. Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau một cách linh hoạt mang đến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu.
Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn phim với góc quay thật rộng: “Hai người đi liền hơn một tháng. Họ đi thuyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tình, trông thấy ở trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. […] A Phủ làm nhà thèo đảnh ra một ngọn đồi gianh. Những ngày quan trời trông thấy dòng sông và cánh đồng Bản Pe có ruộng xòe như cánh quạt”. Gần rồi xa, cao và thấp, diện và điểm, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ… Tả con đường vượt suối, băng rừng mà thấy được hành trình và khát vọng đi tìm cuộc sống tự do. Tái hiện khung cảnh thiên nhiên mà gợi được vẻ đẹp mạnh mẽ, phóng khoáng, lãng mạn của hồn người…
Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ được tạo nên bằng ngòi bút của một người “thợ chữ” tài hoa và kiên tâm trên con đường sáng tạo. Phải nói đến cả tình cảm gắn bó thắm thiết, sâu nặng của nhà văn: “thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên” (Tô Hoài). Không chỉ nhà văn, mà cả người đọc cũng muốn nói lời tri ân núi rừng, sông suối và con người Tây Bắc – nguồn “nguyên liệu” thấm đẫm chất thơ! Tô Hoài đã trả được món nợ ân tình đó khi truyền cho người đọc những rung cảm sâu xa với cảnh, với người. Ông cũng đã thực hiện được điều mà mọi nhà văn đều mong ước: “trong văn xuôi, cần phải đượm hồn thơ, có như thế vãn xuôi mới trong sáng cất cao”
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3
“Mỗi người nghệ sĩ có một cái tạng riêng, một tố chất tâm hồn riêng tạo nên một thứ nam châm hút lấy những cái gì phù hợp” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có lẽ vì vậy mà mỗi khi đọc những tác phẩm của Nam Cao, như “Chí Phèo” chẳng hạn, tôi lại cảm, lại thấm thía cái nỗi đau tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng có những khi cuộc sống xô bồ, tôi lại tìm đến với Thạch Lam, mượn chiếc chìa khóa để bước vào cánh cổng của miền thần tiên, cổ tích, cảm nhận tâm hồn mình lắng lại “dưới bóng hoàng lan”. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thích nhất cái cảm giác mỗi khi đọc những “trang thơ” rất thơ của Tô Hoài – “Vợ chồng A Phủ”.
Có lẽ “chất thơ” chẳng còn xa lạ gì đối với những bạn đọc yêu văn học, đặc biệt là với những thi gia, đó là tính chất trữ tình, tính chất được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.
Thế nhưng có mâu thuẫn gì không khi nói một tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn cũng thấm đẫm chất thơ? Chúng ta hoàn toàn có thể và có quyền nói như vậy. Chất thơ tự bao giờ đã không còn bó hẹp mình trong khuôn khổ của những bài thơ trữ tình, nó đã tự bật tung, phát ra ánh sáng và phù lên văn đàn Việt Nam một lớp áo vô hình chỉ được cảm nhận bằng rung động con tim, xúc động tâm hồn.
Trên văn đàn Việt Nam có biết bao những tác phẩm văn xuôi thấm đẫm chất thơ nhưng không phải tác phẩm nào được sinh ra dưới ngòi bút của người nghệ sĩ đều mang sẵn trong mình tính chất trữ tình, đều thấm đẫm những ý thơ trong văn xuôi. Một truyện ngắn được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người, và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy.
Cách đây hơn sáu mươi năm trước, có một người lữ khách đã băng rừng, lội suối để tìm đến với một vùng đất mới, để khai phá và mang những nét đẹp của một vùng đất xa xôi đến với bạn đọc bấy giờ: Tô Hoài trên con đường tìm đến với mảnh đất Tây Bắc thân yêu. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn tập trung tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài về Tây Bắc không chỉ vì nó đem lại những hương sắc lạ về cảnh trí, con người mà quan trọng hơn còn là khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn của nội tâm, kết đọng một tình cảm nhân đạo đậm đà để rồi bao trùm lên tất cả là điều mà sau này Tô Hoài đã cảm thấy “một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật của nơi rừng núi tuyệt vời thơ mộng ấy”
Trước tiên tôi muốn nói tới một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn diệu kỳ của nơi rừng núi Tây Bắc. Một thế giới không phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao, cổ tích, một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm hiện lên qua bức tranh thiên nhiên sống động, quyến rũ, đẹp mê hồn của Hồng Ngài: “năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đô, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Với những gam màu tự nhiên, tất cả cảnh vật, thiên nhiên, đất trời cùng thêu dệt tạo nên một bức tranh thủy mặc của tạo hóa chỉ được tìm thấy ở chốn núi rừng Tây Bắc.
Sẽ là chưa đủ nếu bức tranh ấy thiếu bóng dáng của con người. Tuyệt vời làm sao khi mỗi độ tết đến, người ta lại trông thấy “đám trẻ đội Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà”. Rồi những đêm tình mùa xuân, những người con trai mang tiếng khèn, điệu nhạc đi tìm “bạn yêu”. Khung cảnh ấy mở ra trong tâm trí người đọc một miền đất thanh bình với những nét đẹp văn hóa bình dị nhưng đầy ý nghĩa đối với con người.
Thiên nhiên dù đẹp đến đâu cũng chỉ là phông nền cho con người tỏa sáng, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thơ nhất có lẽ phải kể tới bức tranh đời sống tâm hồn của con người nơi đây. Những cô gái như cô Mị tài sắc dù bị vùi dập bởi chế độ phong kiến miền núi, bởi nam quyền, thần quyền nhưng sức sống tiềm tàng chưa bao giờ tắt lịm. Những chàng trai như A Phủ dù cuộc đời trăm đắng ngàn cay nhưng vẫn đầy bản lĩnh, gan góc, quyết liệt, dữ dội.
Khi cánh cửa “Vợ chồng A Phủ” vừa mở ra, Tô Hoài đã dắt nẻo hồn ta đến với một con người hay đúng hơn là một kiếp người, một số phận nghiệt ngã qua hình ảnh của người thiếu phụ buồn “ngồi quay sợi bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im lìm trong cảnh giàu sang của nhà thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng không nói, chỉ “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi lui vào, lui ra chỉ là một căn buồng kín mít “chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay”. Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, cũng chẳng đi chơi Tết.
Nhà văn có tả hình dáng nhưng không nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã đắng cay, tủi cực. Điều đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người đọc những xót thương. Ách áp bức nặng nề của bọn chúa đất miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một tâm hồn yêu đời khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”, “Mị chỉ cúi mặt không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”, Mị không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Cô giống như một cỗ máy hoạt động theo một quy luật đã được lập trình sẵn. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí cũng không còn biết đến khổ đau.
Nhưng đâu đó trong thẳm sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì khổ đau, cơ cực ấy vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa nơi núi rừng Tây Bắc đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, hiếu thảo. Ngày ấy tâm hồn yêu đời của Mị gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, không có sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi cũng hay như thổi sáo vậy”/ Ở Mị, khát vọng tình yêu, tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ lại sớm rơi vào cạm bẫy.
Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một hướng tự nhiên, hợp lý. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội nó sẽ bùng lên mãnh liệt.
Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử, Mị tìm đến cái chết chính là sự phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể nào làm khác được trong hoàn cảnh ấy, có đến “mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị trốn về nhà cầm nắm lá ngón trên tay. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa đã khiến Mị không thể chấp nhận một cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử như một con vật. Mị tìm đến cái chết như một sự giải thoát.
Đêm tình mùa xuân là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Mị. Mị đột nhiên lại muốn đi chơi và sửa soạn để đi chơi. Tô Hoài đã bộc lộ tất cả những anh hao của mình trong việc lý giải sự chuyển biến tâm lý của Mị, nó vừa như là một hành động bộc phát, lại vừa là một hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng được khơi dậy, bùng lên để quên đi thực tại, sống với bản chất của mình.
Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ sự tác động của hoàn cảnh, khi mà Mị nhìn thấy vẻ đẹp của cảnh vật Hồng Ngài khi xuân đến. Nếu ngoại cảnh là chất xúc tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một” như nuốt cay, nuốt đắng, nuốt uất, nuốt hận vào lòng. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát khao hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng sáo nhiều lần đến vậy. “Tiếng sáo gọi bạn cứ tha thiết, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng chừng đã nguội tắt.
Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lửng lơ”, “lấp ló” ngoài đầu núi, ngoài đường. Sau đó tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã thoát khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay.
Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ của mình và niềm vui sống trở lại: “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là “nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết” chứ không buồn nhớ lại nữa cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng chừng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt về lý trí lẫn tình cảm nhưng từ trong sâu thẳm, tâm hồn Mị không chết, Mị vẫn còn khóc được cho hoài niệm của mình, khóc cho vết thương tưởng như đã mãi mãi thánh sẹo, thành chai. Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn tới hành động: “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Chi ít, thứ ánh sáng này cũng giúp Mị cảm thấy mình không phải là một thứ đồ vật bị lãng quên. Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
Và cứ như một người đàn bà mộng du, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói mà tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, đám chơi”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới lung linh như ngọc bích, lóng lánh như pha lê, một thế giới mà ở đó, Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được yêu. Đó là một sức sống tiềm tàng, dữ dội và mãnh liệt.
Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở Mị được biểu hiện rõ nhất ở hành động “vùng bước đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa quậy được”, Mị mới sực tỉnh trở về hiện tại. Tiếng sáo im bặt, thay vào đó là “tiếng chân ngựa đạp vách” khiến Mị cay đắng nghĩ “mình không bằng con ngựa”. Trong tác phẩm, rất nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói, đó là biểu tượng cho chế độ cường quyền và thần quyền khắc nghiệt, nhưng ngay cả khi cuộn dây thít chặt cũng không thể ngăn con người nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: “khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống của Mị càng thêm phần dữ dội. Quá trình hồi sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề hời hợt, dễ dãi. Nhân vật thoát khỏi sự thờ ơ, nguội lạnh không hề đơn điệu, dễ dàng. Mị sống quá lâu trong cái khổ, vì thế, sự hồi sinh đến quá nhanh rất dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một quá trình chuyển biến lớn dần và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó không gì thay thế được chính là tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Một làn sóng cảm xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể làm thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì mà Tô Hoài viết về đêm tình mùa xuân ấy thật vô cùng ý nghĩa. Qua đây nhà văn muốn khẳng định: Sức sống của con người dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn luôn âm ỉ, chỉ cần gặp dịp là sẽ bùng lên.
Khi tiếng sáo im bặt, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách cũng là lúc mọi ký ức tan biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn. Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Có đêm, bị A Sử đánh gục ngay trên bếp lửa mà đêm say, Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay như thế. Ta cứ tưởng như sức sống trong Mị như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên rồi tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá. Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho chính mình.
Hành động của Mị vừa mang tính tự phát, vừa có ý thức tự giác. Tự phát bở sự việc đến nhanh, đột ngột và Mị không kịp tính trước sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy theo A Phủ hay không Mị cũng chỉ quyết định ngay sau khi cắt dây cởi trói, đứng lặng một phút trong bóng tối. Tô Hoài thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra. Một là Mị trốn chồng vì khổ quá, hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ là người mà bao cô gái mong ước có được. Hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật. Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng không hề chạy theo. Chỉ sau khi định thần lại nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy theo một cách tự nhiên.
Tuy vậy hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất của một người con gái hiếu thảo, yêu đời, ham sống trong quá khứ. Từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực từng bát một” và ngay cả ý định tự sát của Mị nữa. Trực tiếp hơn là những giây phút Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy đau đớn giống như những lần Mị bị trói, Mị không thể để một con người vô tội phải chết dần trong đau đớn.
Tất cả được khởi dậy đúng lúc Mị trông thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại, nhận ra mình, xót xa cho mình, nhận ra sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.
Tất nhiên Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy. Khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “Ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống, tiếp thêm sức mạnh cho Mị vượt lên số phận.
Những vẻ đẹp đặc biệt là sức sống tiềm tàng trong tâm hồn của người con gái nơi núng rừng Tây Bắc đã làm cho truyện ngắn tỏa ngát hương thơm, thấm đẫm trữ tình. Lại một minh chứng cho tài hoa của người nghệ sĩ đã có công khai phá một vùng đất mới.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sẽ vượt qua thách thức của thời gian để sống mãi với tâm hồn bạn đọc không chỉ bởi nhà văn đã đưa vào những “ý thơ trong văn xuôi” mà hơn hết ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cao cả, luôn sẵn sàng “nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ”.
Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 4
Tô Hoài là một trong những cây bút nổi bật của nền văn học Việt Nam hiện đại, với số lượng tác phẩm đồ sộ viết về nhiều đề tài, thể loại, hướng đến nhiều đối tượng độc giả khác nhau. Đặc biệt trong quãng thời gian 9 năm tham gia kháng chiến chống Pháp tạo vùng núi Tây Bắc nước ta đã để lại cho Tô Hoài nhiều những xúc cảm cũng như những dấu ấn sâu sắc với con người và thiên nhiên nơi đây. Trong quá trình kháng chiến, cùng ăn ở, sinh hoạt với đồng bào dân tộc thiểu số, tác giả đã có cái nhìn thấu hiểu và thông cảm sâu sắc với những con người phải chịu sự áp bức từ cả cường quyền lẫn thần quyền. Chính vì thế mà các tác phẩm hiện thực đã ra đời tiêu biểu nhất là Vợ chồng A Phủ không chỉ có nội dung, ý nghĩa sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc sống của đồng bào miền núi những năm kháng chiến, mà nó còn là tất cả những gì tinh túy về mảnh đất Tây Bắc mà Tô Hoài đã khám phá, góp nhặt được. Sự hiểu biết, gắn bó và trân trọng của tác giả được thể hiện một cách rất tinh tế nhẹ nhàng thông qua các ý thơ trong tác phẩm, khiến độc giả càng có ấn tượng sâu sắc về cuộc đời, số phận của từng nhân vật, cũng như những nét độc đáo từ mảnh đất xa xôi ngút ngàn mây phủ.
Khi nói về Truyện Tây Bắc mà tiêu biểu nhất là Vợ chồng A Phủ Tô Hoài đã nói rằng “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Rõ ràng rằng cuộc đời của nhân vật Mị hay A Phủ đều là cuộc đời bao trùm bởi những bi kịch và đau khổ đến mức tuyệt vọng, thế nhưng dưới ngòi bút của Tô Hoài, dưới cái nhìn thấm thía và sâu sắc vào nội tâm của nhân vật, ông không quá nhấn mạnh những nỗi đau ấy, mà thay vào đó To Hoài để người đọc tự cảm nhận thông qua những suy nghĩ, cử chỉ của nhân vật. Và cả cái cách khi ông viết về khung cảnh sinh hoạt vùng Tây Bắc, viết về những thói quen, những công việc, những đặc nhưng mà chỉ nơi này mới có được, khiến độc giả dễ dàng cảm nhận được tâm hồn cũng như số phận và nỗi đau của từng nhân vật. Tô Hoài muốn diễn tả cái cuộc đời bế tắc và tuyệt vọng của Mị thông qua một hình ảnh rất đặc sắc, ấy là căn buồng Mị ở chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay mà trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó chính là một ý thơ rất đẹp, người đọc dễ dàng liên tưởng đến một vùng đất bốn bề mây phủ sương giăng, bay bổng và thơ mộng, ban ngày thì mây hòa với nắng, ban đêm thì sương quyện với trăng. Ấy thế nhưng một vùng đất đẹp, đầy chất thơ như thế lại có những cuộc đời đớn đau giống Mị, cô thấy trăng trắng ấy nhưng lại không phân biệt được đêm với ngày, không nhận thấy được sự huyền diệu tươi đẹp của thiên nhiên, thể hiện một cuộc đời cầm tù và bế tắc đến khôn cùng. Có thể nói rằng chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài lại càng tô đậm thêm số phận của nhân vật.
Một dẫn chứng khác về chất thơ, chất nhạc trong văn của Tô Hoài phải kể đến cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài có biết bao nhiêu náo nhiệt, vui nhộn và đặc sắc “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Đọc những câu văn ấy người ta thấy một cái không khí thật dễ chịu, dường như còn cảm nhận được cả cái gió se se lạnh của mùa xuân, cái nắng ấm áp những ngày giáp Tết, đến cả cái không khí rộn ràng, vui tươi trong những ngày xuân vừa tới. Như vậy chỉ bằng vài câu văn tả cảnh, nhưng đã gợi ra một không gian Tây Bắc rộng lớn, sống động, và có lẽ gợi ra nhiều nhất ấy là cảm giác tự do, phóng khoáng. Ấy thế nhưng khi quay lại với cuộc đời của Mị, Mị lại càng bất hạnh hơn khi bản thân ở tại một vùng đất tươi đẹp như thế, nhưng đời Mị lại toàn là những bi kịch đen tối và đớn đau nhất ấy là sự mất tự do, bị cầm tù bằng một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Song song với việc miêu tả cuộc đời Mị, với những diễn biến tâm trạng, ý thơ của Tô Hoài cũng len lỏi khắp trong từng câu văn. Khi kể về cuộc đời của Mị tại nhà thống lý Pá Tra, người ta dễ dàng nhận thấy những nếp sống, phong cách sinh hoạt của người dân tộc H’Mông ở miền núi phía Bắc, như đi làm nương ngô, nương lúa, quay sợi gai, dệt vải, cõng nước, thái cỏ ngựa, chẻ củi, giặt đay, xe đay,…
Rồi những cảnh bếp lửa bập bùng, không tắt hòn than vào những đêm đông giá rét,… Hoặc trong cách ăn mặc phục sức thì phụ nữ mặc váy hoa, vấn tóc chít khăn, đàn ông đeo vòng bạc, đội khăn trắng. Và đáng chú ý nhất khi nói về chất thơ trong Vợ chồng A Phủ có lẽ phải kể đến cái cách mà Tô Hoài đã miêu tả về mùa xuân ở Hồng Ngài, mùa xuân ở miền cao. Ở đây người ta đoán mùa xuân đến dựa vào vụ mùa canh tác, ăn tết không kể ngày tháng, cứ kết thúc một mùa thu hoạch ngô lúa, là họ lại ăn Tết vừa mừng xuân đến, vừa mừng việc mùa màng được no đủ. Và trong mùa xuân ấy Tô Hoài cũng rất tinh tế khi đưa vào những cảnh trai gái mùa xuân tìm nhau để tỏ tình, họ khoác lên mình những bộ áo đẹp nhất, đi chơi theo từng đoàn, lập hội ném pao, thổi sáo, đàn môi, uống rượu,… đầy náo nức và mê say, mang đậm phong vị núi rừng Tây Bắc, tự do và bay bổng. Trong đó ngày Tết được Tô Hoài đặc tả bằng những hình ảnh giàu tính nhạc và màu sắc, mang đến một không khí rộn ràng, náo nức “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ […] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Hay cái cách ăn vận ngày Tết của người phụ nữ miền núi, mỗi một dân tộc lại có những nét đặc sắc riêng biệt “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”. Có thể nói rằng thông qua đôi mắt nhạy bén, giàu tình cảm của Tô Hoài, mùa xuân vùng Tây Bắc đã hiện lên một cách thật chân thực và nhiều ấn tượng.
Một điểm nhấn đặc biệt, có thể xem là âm thanh sự sống đã thức tỉnh khao khát tự do, khao khát hạnh phúc ở nhân vật Mị ấy là tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn vào những đêm tình mùa xuân “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo ấy gợi Mị nhớ đến những câu hát:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu…
Anh ném pao em không bắt
Em không yêu quả pao rơi rồi”
Đó là những câu hát thể hiện lối sống phóng khoáng, tự do của đồng bào dân tộc miền núi, mà khi đến với Mị nó lại dường như đánh động vào tâm hồn, Mị vẫn còn trẻ, Mị khao khát được tự do, hạnh phúc, khao khát tình yêu, thứ mà chồng Mị không cho Mị được. Nỗi đau đớn dần trỗi dậy trong tâm hồn cô gái, cũng là lúc Mị thức tỉnh sau nhiều năm câm lặng, chịu đựng. Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát, nó không chỉ là thể hiện những nỗi uất ức, đau đớn chất chứa trong lòng Mị bấy lâu nay, mà còn là biểu hiện của sức sống tiềm tàng mãnh liệt, của ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng, nhiều chất thơ và ý vị. Mị lại cảm thấy yêu đời, lại nhớ về những ký ức thật tươi đẹp khi xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Rồi sau tất cả, dưới tác động của tiếng sáo gọi bạn, dưới men say của rượu “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Có thể nói rằng sự thức tỉnh của Mị gắn liền với nét văn hóa đặc sắc của người miền núi phía Bắc, đem đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời một người phụ nữ H’Mông ở Hồng Ngài khi xưa. Tính nhân văn trong tác phẩm đã được Tô Hoài khéo léo đưa vào trong tác phẩm bằng những ý thơ thật tinh tế, những cảm nhận và lòng thông cảm sâu sắc, mà không phải bất cứ một cây bút nào cũng có được
Bên cạnh những nét phong tục tập quán tốt đẹp, thì Tô Hoài cũng chỉ ra những ngang trái và bất công đang diễn ra ở vùng miền núi phía Bắc, khi mà người dân tộc nơi đây luôn phải chịu sự áp bức của cả cường quyền và thần quyền. Đầu tiên phải kể đến hủ tục bắt vợ, cuộc đời Mị đã phải bước vào cảnh đớn đau khi bị bắt về nhà thống lý Pá Tra làm con dâu gán nợ, sống một cuộc đời nhiều đớn đau, khổ cực, đến độ chai lỳ. Mà căn nguyên của bi kịch ấy cũng là đến từ sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn, và sự ngang ngược tàn ác của giai cấp thống trị. Xoay quanh nhân vật A Phủ, cũng là một nhân vật nhiều bi kịch, chất thơ ở nhân vật này hiện lên với vẻ đẹp của một người đàn ông khỏe mạnh, khôi ngô, không sợ cường quyền, sẵn sàng lao vào đánh kẻ đã phá tan cuộc chơi của mình, mặc kệ hắn là con nhà thống lý. Tuy nhiên sự nghèo khó, thân cô thế cô đã đẩy anh vào bi kịch, với cảnh xử kiện sặc mùi khói thuốc phiện, ăn uống của bè lũ cầm quyền, còn bản thân A Phủ thì bị đánh bầm dập, bắt trói, bắt quỳ, cuối cùng phải chấp nhận món nợ mà có lẽ cả đời anh, đời con cháu anh cũng chưa trả hết, trở thành nô lệ cho nhà thống lý Pá Tra. Có bất công đến cùng cực, mới có sự vùng dậy mạnh mẽ, giống như Tô Hoài nói “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”, cả Mị và A Phủ đều là những con người phải chịu áp bức đến tột cùng, thế nhưng chưa khi nào cái tâm hồn khao khát được sống, được tự do, được hạnh phúc hoàn toàn bị chôn vùi, dập tắt, mà nó chỉ chờ đợi cơ hội là bùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Cảnh Mị và A Phủ dắt tay nhau chạy xuống triền đồi, mang đến cho người đọc những xúc cảm sâu sắc, trước hết là đến từ sự tự giải phóng, vùng dậy mạnh mẽ của hai nhân vật chính, sau đó là những hy vọng về một tương lai tươi sáng cho tất cả những con người nơi đây, có lẽ vào một ngày không xa tất cả những con người bị áp bức cũng sẽ đều tìm được cho mình một lối thoát riêng.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm hiện thực tiêu biểu nhất khi viết về đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Cái hay của tác phẩm không chỉ đến từ nội dung mang giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc mà còn xuất phát từ những ý thơ trong văn xuôi, đem đến cho người đọc những cái nhìn, những cảm nhận thật sâu sắc về thiên nhiên và con người miền núi phía Bắc. Có thế mới thấy được tấm lòng chân thành, gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Bắc cũng như tài năng của tác giả trong lĩnh vực văn học hiện thực giai đoạn sau cách mạng.
………….
Tải file tài liệu để xem thêm chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 7 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 12 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.