Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành 2 Dàn ý & 8 bài văn hay lớp 10 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 8 mẫu Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi ngôn ngữ, biết cách lập luận trong bài văn phân tích nhân vật được hay hơn.
Phân tích nhân vật Trương Phi chúng ta thấy được tính tình nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, bộc trực, thẳng thắn. Tuy nhiên đến lúc cần suy xét thì nhân vật này lại bộc lộ bản tính cẩn thận khác xa tính cách vốn có của mình. Điều đó thể hiện sự trân trọng, niềm hy vọng mãnh liệt vào tấm lòng của người anh kết nghĩa là Quan Công. Và để hiểu rõ hơn về nhân vật này, mời các bạn cùng theo dõi 8 bài văn phân tích nhân vật Trương Phi dưới đây. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn phân tích Hồi trống Cổ Thành.
Phân tích nhân vật Trương Phi hay nhất
- Dàn ý phân tích nhân vật Trương Phi
- Sơ đồ tư duy phân tích Trương Phi
- Hình tượng nhân vật Trương Phi (4 Mẫu)
- Phân tích nhân vật Trương Phi (4 Mẫu)
Dàn ý phân tích nhân vật Trương Phi
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả La Quán Trung (tên tác giả, con người, sự nghiệp văn học) và đoạn trích “Hồi trống cổ thành” (vị trí, nội dung đoạn trích).
- Giới thiệu nhân vật Trương Phi: Là nhân vật chính của đoạn trích
II. Thân bài
1. Khi nghe tin Quan Công đến.
- Thái độ: chẳng nói chẳng rằng
- Hành động: Mặc áo giáp dẫn nghìn quân lên ải Bắc
→ Hành động vội vàng, nóng vội.
2. Khi gặp Quan Công
– Thái độ: mắt trợn tròn, râu hùm vểnh ngược.
– Hành động: hò hét như sấm, múa sà mâu tới đâm Quan Công.
– Cách xưng hô: Mày – tao, nó, thằng, không coi Quan Công là người bề trên.
– Nguyên nhân: vì nghi ngờ Quan Công phản bội
→ Là một người nóng nảy nhưng đó là biểu hiện của sự cương trực, kiên quyết.
– Buộc tội Quan Công: Sử dụng những lập luận sắc bén, hợp tình hợp lí
- Bỏ anh → Bất nghĩa
- Hàng Tào → Bất trung
- Được phong hầu tước → Tham lam
- Đến đây đánh lừa; đâu có tốt bụng; đến để bắt ta → Bất nhân
→ Là người ngay thẳng, yêu ghét rõ ràng, trắng đen rạch ròi.
3. Khi Sái Dương xuất hiện.
– Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình
– Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.
– Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.
→ Thái độ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát của con người ngay thẳng
→ Việc Sái Dương xuất hiện đẩy mâu thuẫn giữa hai nhân vật Trương Phi – Quan Công lên đến đỉnh điểm
→ Sái Dương là nút thắt để Quan Công giải mối hàm oan, Quan Công nhờ đó mà giải được nỗi oan cho mình, Trương Phi cũng thể hiện được khí chất khảng khái của người anh hùng.
4. Khi Quan Công giết được Sái Dương
– Thái độ, hành động: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công
→ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.
→ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Khắc họa nhân vật qua lời nói và hành động
- Xây dựng những diễn biến tình tiết độc đáo, kịch tính để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Xây dựng nhân vật theo hướng điển hình hóa, Trương Phi đại diện cho những con người nóng nảy nhưng trọng nghĩa, khẳng khái.
- Ngôn ngữ sinh động, cách kể chuyện hấp dẫn.
III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật Trương Phi
- Bàn luận về tính cách Trương Phi trong đời sống thực tế hiện nay.
Sơ đồ tư duy phân tích Trương Phi
Hình tượng nhân vật Trương Phi (3 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những tiểu thuyết thời trung cổ nổi tiếng nhất. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, nhưng mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách và diện mạo riêng. Và trong số những nhân vật đó, chúng ta không thể không nhớ đến Trương Phi thẳng thắn, cương trực và trung nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Trống cổ”.
Tác phẩm ra đời vào đầu thời nhà Minh, kể về một đất nước bị chia ba (cát cứ chia) gần trăm năm của Trung Quốc cổ đại vào khoảng thế kỷ II – III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quân, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm vạch trần tình hình chính trị của Trung Quốc mà đặc điểm nổi bật là nạn cát cứ tranh giành, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, dân chúng chết đói. Thể hiện nguyện vọng của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất.
Đoạn trích kể về Quan Công cùng chị dâu đi tìm em là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là kẻ phản bội mình đầu hàng Tào Tháo khiến Trương Phi vô cùng tức giận. Quan Công phải trải qua một bài kiểm tra để chứng minh mình vô tội.
Trương Phi vốn mang tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ nói láo nữa, không mập mờ hay sống thoáng. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất cụ thể, rõ ràng qua câu nói với hai người chị dâu, cũng chính là nói với Quang Công: “Thần trung thà chết chứ không chịu nhục, lẽ nào đại nhân. nam? thờ hai chủ.” Theo quan niệm phong kiến, trung quân là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ một chủ đó, còn ai thờ hai chủ là phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi cân nhắc, phán đoán tướng mạo của Quang Công. Quan Công bất ngờ trở về sau khi phản bội vườn đào, bỏ mình đầu hàng Tào Tháo, kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy, khi Quan Công ở dưới trướng Tào Tháo, ông còn được phong tứ hầu, Quan Công quy phục Tào Tháo. Vì vậy, việc Quan Công trở về là để đánh lừa Trương Phi, nhằm chiếm được Cổ Thành. Ngoài ra, hành động Trương Phi dẫn ngựa khiến Trương Phi càng thêm tin tưởng vào khả năng phán đoán của mình. Trước những bằng chứng, suy diễn quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần tố cáo Quan Công. Tố Quan Công bội bạc bội bạc: “Ngươi bội ta, còn mặt mũi nào gặp ta?” Chưa dừng lại ở đó, Trương Phi còn tố cáo Quan Công bất trung: “Ngươi bỏ ta, Tào Tháo được phong làm Tứ hầu, nay lại đến lừa ta, ta quyết sống chết với ngươi”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là bất nhân: “Ngươi cũng láo, hắn không có lòng tốt, hắn đến đây bắt ta.” Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một người đầy tớ trung thành.
Từ những suy luận, những gì tôi chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng rất quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Cán báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “không nói một lời, lập tức mặc giáp, cưỡi ngựa vác giáo, dẫn một nghìn quân, lập tức đi đường tắt đến cửa bắc. ”, Trương Phi đã sẵn sàng. trận đánh. Vừa nhìn thấy Quan Công, “mắt trợn tròn, râu hùm vểnh, gầm lên như sấm, múa giáo rắn, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công hỏi nguyên do “Trương Phi ngẩng đầu lên kêu ngươi là huynh”, buộc tội Quan Công mưu phản. Dù được hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh cho Quan Công, Trương Phi vẫn gạt đi và vẫn giữ nguyên lập luận, phán đoán của mình. Nhất là khi quân cầm cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng tức giận quát lớn: “Vẫn là lần cuối”. Con ngựa quân mang cờ Tào là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và lập tức Trương Phi cầm bát thương rắn xông tới đâm Trương Phi.
Trước yêu cầu của Quan Công để chứng minh lòng trung thành của mình bằng cách chặt đầu tướng Tào, Trương Phi chấp nhận, nhưng đưa ra một điều kiện để thách thức Trương Phi, đó là chặt đầu tướng Tào trong ba hồi trống. Đây là một thử thách rất lớn đối với Quan Công, vừa để chứng tỏ sự trong sạch, vừa để thể hiện tài năng của mình. Vậy tại sao chỉ là ba hồi trống mà không phải năm hồi trống. Nếu 5 hồi trống thì quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy của Trương Phi, còn 5 hồi thì hạ thấp tài năng của Quan Công. Vì vậy, ba hành vi là hợp lý nhất. Đồng thời, khi đưa ra điều kiện, ba hồi trống Trương Phi cũng ngầm bày tỏ và gửi gắm niềm hy vọng đến Quan Công rằng, Quan Công vẫn trước sau như một, không bội bạc với mình.
Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đánh bại tướng của Tào Tháo, lòng trung nghĩa của Quan đã được chứng thực. Đó cũng là thời điểm quá trình hòa giải bắt đầu. Nếu như ban đầu Trương Phi nóng nảy, nóng nảy thì đến đây anh đã thận trọng hơn rất nhiều, khác hẳn với tính cách thường ngày của Trương Phi. Trương Phi làm vậy vì rất sợ anh em kết nghĩa nên cần có thời gian để khẳng định lòng trung thành của Quan Công. Trên thực tế, trước khi Quan Công chém Sái Dương, Trương Phi cũng từng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu ta”, điều này cho thấy Sái Dương không cùng phe với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hoàn toàn. Quan Công bắt một người lính cầm cờ của quân Tào hỏi chuyện, Phi mới tin là có thật. Tiếp đó là cuộc đối thoại giữa hai chị dâu về quá trình gian khổ, khó khăn, nguy hiểm mà Quan Công phải trải qua, Trương Phi mới hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã thể hiện rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi đối với Quan Công.
Các nhân vật được xây dựng chủ yếu thông qua đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ nét suy nghĩ, tính cách của nhân vật – Trương Phi là người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng rất trọng tình cảm. Cốt truyện như một vở kịch đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc. Các chi tiết của truyện đặc sắc, đặc biệt là chi tiết của câu trống, mang ý nghĩa thách thức và minh oan.
Với cốt truyện hấp dẫn, với những tình tiết đặc sắc, đoạn trích đã thể hiện tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi – vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời, đoạn trích cũng ca ngợi tình nghĩa cao cả, sâu sắc – một biểu hiện rõ rệt của lòng trung thành.
Bài làm mẫu 2
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là 1 trong những bộ tiểu thuyết nổi danh nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm đối tượng, nhưng mỗi đối tượng luôn được tái tạo với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những đối tượng ấy, ta chẳng thể ko nhớ tới Trương Phi, bộc trực, ngay thẳng, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của đối tượng được trình bày rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.
Tác phẩm có mặt trên thị trường vào đầu thời Minh, kể về 1 nước chia 3 (cát cứ phân tranh) trong gần trăm 5 của Trung Quốc thời cổ thời gian thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên 3 thần thế chính: thần thế của Tào Tháo, thân thế của Vương Quyền, thần thế của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa nhưng mà đường nét nổi trội là cát cứ phân tranh, cá bự nuốt cá nhỏ, chiến tranh liên hồi, dân chúng đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của dân chúng: hòa bình, bất biến, hợp nhất.
Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều ấy làm Trương Phi hết sức bức xúc. Quan Công phải trải qua thách thức để minh chứng sự trong lành của mình.
Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, ngay thẳng, ko bao giờ có nữa lời nói điêu, ko to mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được trình bày rất rõ ràng, rành mạch qua câu nói với 2 chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ ko chịu nhục, có nhẽ đâu nam nhi lại thờ 2 chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ 1 chủ, chết sống chỉ có 1 chủ ấy nhưng mà thôi, còn người nào thờ 2 chủ, đấy là kẻ phản bội. Từ lập luận ấy, Trương Phi suy xét, suy đoán về sự hiện ra của Quang Công. Quan Công bất chợt trở về sau lúc đã vô ơn vườn đào, bỏ lại anh nhưng mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là đối phương bự của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công lúc ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Do vậy sự trở về của Quan Công là để gạt gẫm Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành. Thêm vào ấy hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng khiến cho Trương Phi tin cậy vào thẩm định của mình hơn. Trước những bằng chứng, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã 3 lần cáo buộc Quan Công. Buộc tội Quan Công bội ơn, vô ơn: “Mày đã vô ơn, còn mặt mày nào tới gặp tao nữa”. Không dừng lại ở ấy Trương Phi cáo buộc Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại tới lừa tao, tao quyết hầu chết sống với mày”. Và chung cuộc cáo buộc Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta ấy”. Những lời cáo buộc này đều xuất hành từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, ngay thẳng, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của 1 trung thần.
Việc Quan Công chém được Triệu Dương không hề là việc khó nhưng mà lại rất có ý nghĩa bởi ấy là cách độc nhất vô nhị để Quan Công giải oan. Sự giải oan cũng ko mấy gian khổ nhưng mà nó trình bày thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã hình thành 1 cảnh huống rất rực rỡ để vừa ca tụng tình cảm anh em gắn bó tình nghĩa của Lưu, Quan, Trương vừa biểu hiện rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, điển hình cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm mơ ước của nhân dân dân chúng về 1 ông vua hiền, 1 triều đình chính nghĩa và nhân đạo.
Với lối kể chuyện dân gian, dễ dàng hóa cốt truyện trong sự nhiều chủng loại của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt tới chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn tức là tiểu thuyết cổ đại điển hình ở cả 2 bình diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm ko chỉ bởi trị giá bự của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức nhưng mà còn do vậy giới đối tượng được xây dựng rất thành công. Những đối tượng điển hình của Tam quốc diễn nghĩa đã trở thành rất thân thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí đối tượng như tiểu thuyết đương đại nhưng mà xây dựng tính cách đối tượng bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa nói chung, La Quán Trung vẫn xây dựng được 1 toàn cầu đối tượng nhiều chủng loại có bản lĩnh bao quát và tái tạo sinh động 1 thời gian lịch sử dài gần 1 trăm 5 với rất nhiều bất định. Qua đây tác giả đã gửi gắm những nghĩ suy và trình bày cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với 1 đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng mà 2 đối tượng Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhơn nghĩa, sự thật thà và chân tình của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài chiến trận nhưng mà Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục tình nghĩa, giáo dục lối sống, lối xử sự theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Bài làm mẫu 3
Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, không thể không nói tới tác giả La Quán Trung. Ông sinh vào cuối đời nhà Nguyên, mất vào đầu đời nhà Minh. Quán Trung có năng khiếu về văn chương. Ông rất giỏi trong cách dùng từ khúc, câu đối. Ông còn tài viết các loại nhạc kịch. Nhưng người đời nhớ đến ông chỉ trong vai trò tiểu thuyết gia.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành, nói về Trương Phi gặp lại Quan Công khi cùng chị dâu đi tìm Lưu Bị. Lúc này, Trương Phi cho rằng, Quan Công đã phản bội lời thề hẹn của 3 anh em mà bỏ đi hang Tào Tháo. Tuy chỉ là nghi ngờ thôi, nhưng điều đó cũng khiến Trương Phi vô cùng giận dữ. Trương Phi bắt Quan Công phải chứng minh sự trong sạch của mình bằng việc qua 3 hồi trống giết tướng Tào. Phần thân bài dưới đây, sẽ cho chúng ta biết diễn biến tâm trạng và bức chân dung Trương Phi.
Nếu ai đã đọc cuốn Tam quốc diễn nghĩa, đều sẽ biết đến nhân vật Trương Phi là một anh hùng có tính cách thẳng thắn, bộc trực. Nhận vật này không bao giờ có lối nói úp mở, mập mờ, hành xử dối trá. Bởi thế, khi phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích này, các bạn sẽ càng thấy rõ bức chân dung đó. Theo La Quán Trung, lập trường, quan điểm, của nhân vật Trương Phi vô cùng rạch ròi, rõ ràng. Điều này được thể hiện qua câu nói mà nhân vật đã nói với hai chị dâu và cũng là nhắc khéo tới Quan Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”.
Trong quan niệm của người thời xưa, trung thần là người chỉ tôn thờ một minh chủ. Họ sẽ sống chết, làm mọi việc để giúp chủ đó mà thôi. Những ai có ý đồ thờ hai chủ nghĩa kẻ ấy phản bội. Từ suy nghĩ, lập luận đó, Trương Phi phán đoán, suy xét về việc Quang Công xuất hiện. Sau thời gian vắng bóng, đột nhiên Quan Công. Đã thế, nghe đâu hắn đã hang Tào Tháo, kẻ thù không đội trời chung với Lưu Bị. Đáng tức hơn, hắn còn được Tào phong hầu, phong tước. Như vậy, chắc chắn, Quan Công đã quy phục, bài Tào Tháo làm chủ. Và bởi thế, sự xuất hiện của Quan Công là để lừa Trương Phi, với mưu đồ chiếm Cổ Thành. Trong cơn giận giữ, khi nghe tin Quan Công tới, Trương Phi đã dẫn thêm quân mã ra giao chiến với Quan Công thay vì nghênh đón: “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”.
Vốn là người nóng tính, nên trước những suy luận, chứng cớ quá rõ ràng, Trương Phi không nói với Quan Công lời nào mà hành động ngay: “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Sau đó, vì không thích nói vòng vo dài dòng, Trương Phi chỉ thẳng mặt Quan Công mà buộc tội, không chỉ một lần mà tới ba lần với ba tội danh. Đầu tiên, nhân vật Trương Phi buộc Quan Công tội vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Chẳng phải là anh em nữa, giờ đây Trương Phi xưng luôn “mày- tao”. Điều này thể hiện thái độ dứt khoát, cương quyết. Tiếp đến, Trương Phi khẳng định Quan Công tội bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng, Trương Phi luận tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Hết sảy những lời cáo buộc này đều xuất phát từ tính cách thẳng thắn, bộc trực của nhân vật. Đó là được xem là một trong những tính cách của trung thần, chỉ tin vào những gì mình thấy, mình chứng kiến.
Có thể nói, phân tích nhân vật Trương Phi tới đây, ta đã có thể hiểu phần nào con người nhân vật này. Trương Phi quả thực là một người ngay thẳng, nhưng khá nóng tính. Cái đầu ông nóng và trái tim nhân vật cũng nóng. Do đó, dù Quan Công đã được hai chị dâu cùng Tôn Càn thanh mình, nhưng Trương Phi vẫn một mực không nghe theo. Nhật vật gạt hết ý kiến và giữ nguyên lý lẽ, lập luận của mình. Nhất là khi đám quân mang cờ của Tào Tháo kéo đến, Trương Phi càng như bị thêm dầu vào lử. Trương Phi mắt sắc lẹm, bừng bừng lửa giận và quát: “bây giờ còn chối nữa không?”.
Lúc này, sự giận dữ của nhân vật Trương Phi bị đẩy lên đỉnh điểm. Vì thế, Trương Phi liền “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Qua hành động này, ta có thể thấy tuy nhân vật trong tiểu thuyết mang tính cách chân thực nhưng vẫn có tính ước lệ của của văn học thời trung đại. Đó là việc làm của nhân vật luôn trở thành hình ảnh minh họa cho tính cách và tư tưởng giai cấp, chứ không đơn thuần là theo logic tâm lý của người thường. Vì thế, với Trương Phi, đạo nghĩa anh em một thủa hàn vi sẽ chẳng là gì nếu như ai đó bị tình nghi là kẻ phản bội. Với những anh hùng thời loạn này, thì chỉ có trung nghĩa là mới là lý tưởng sống và là nguyên tắc ứng xử đúng nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích cộng đồng.
Tướng Tào xuất hiện tuy khiến cơn giận của Trương Phi thêm bùng nổ nhưng chính là nút mở, giúp Quan Công giải oan. Trương Phi đã thử thách lòng trung thành của Quan Công bằng việc chém tướng giặc chỉ trong ba hồi trống. Việc này xảy ra vừa thể hiện sự vẹn nguyên lời thề của Quan Công, vừa bộc lộ thái độ kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của Trương Phi. Đó cũng là một phần của khí chất khảng khái của người anh hùng thời loạn, không dài dòng văn tự, hãy chứng minh bằng hành động.
Phân tích nhân vật Trương Phi, ta có thể thấy, trước yêu cầu của Trương Phi, Quan Công đã nhận lời thử thách. Với tài nghệ của mình cũng như mong muốn minh chứng sự trong sạch, chỉ trong nháy mắt, tướng Tào đã bỏ mạng dưới tay Quan Công. Đến đây, nhiều độc giả tự hỏi, sao Trương Phi không ra yêu cầu năm hồi mà lại là ba hồi. Mỗi người khi cảm nhận tác phẩm sẽ có cách nghĩ khác nhau, nhưng có lẽ, ba hồi sẽ phù hơn với tính cách hơi vội vàng, nóng nảy của Trương Phi. Hơn nữa, nếu dài quá, lại dường như hạp thấp tài nghệ của Quan Công. Đặc biệt, qua đó, Trương Phi ngầm thể hiện gửi gắm hy vọng tới Quan Công. Trương Phi mong Quan Công sẽ vẫn như xưa, không hề phản bội lời thề nơi vườn đào năm xưa.
Không hổ danh là tướng dưới tướng Lưu Bị, Quan Công đã không làm Trương Phi buồn lòng, thất vọng. Chỉ trong 3 hồi trống, tướng Tào đã bị hạ gục. Điều đó đã giúp Quan Công và Trương Phi được hóa giải. Nếu ban đầu gặp Quan Công, Trương Phi nóng giận bao nhiêu thì giờ lại thận trọng bấy nhiêu. Điều này khác hẳn với tính cách thông thường của nhân vật. Sau khi xác nhận được lòng trung thành của Quan Công qua hành động giết tướng giặc, Trương Phi được nghe thêm chuyện từ hai người chị dâu. Nghe xong, Trương Phi vô cùng xúc động trước hành trình gian khổ, nguy hiểm mà Quan Công đã trải. Nhân vật đã “rỏ nước mắt”. Khi người đàn ông khóc là khi người ta bất lực trước chuyện gì đó, hối hận trước chuyện gì đó và cả thấy khâm phục trước chuyện gì đó. Ở đây, giọt nước mắt đó thể hiện cả ba điều ở Trương Phi. Nhân vật nghe chuyện của Quan Công, cảm thấy bất lực vì đã không giúp được Quan Công trên đường đi. Trương Phi hối hận vì đã nghi ngờ lòng trung của Quan Công và khâm phục tài năng, đức độ của Quan Công.
Qua nhân vật Trương Phi, độc giả có thể nhận ra, tác giả La Quan Trung rất ít miêu tả dáng vẻ, ngoại hình. Tác giả chủ yếu phác họa nhân vật qua đối thoại và hành động. Trương Phi là điển hình. Qua lời lẽ và hành động, độc giả thấy rõ được suy nghĩ và tính cách nhân vật. Đó là một người cực kỳ nóng tính và ngay thẳng nhưng cũng sống hết mình vì đạo nghĩa.
Bài làm mẫu 4
Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi thì Quan Công đã hàng Tào, “được phong hầu tử tước”, đã “bội nghĩa” đến Cổ Thành là để lập mưu bắt Phi! Nên phải đâm chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. “Xin hai chị thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã…”. Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo tin hai chị và Quan Vũ đến, mời Trương Phi ra đón, Phi “chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt qua Cửa Bắc”. Hành động dữ dội, sôi sục “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Mạt sát Quan Công: “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”. Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có một điều kiện “xong 3 hồi trống phải chém đầu tướng Tào” để làm tin. Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì Phi mới tin: “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân Trường”. Phục thiện và biết điều. Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong sáng và trung nghĩa.
Phân tích nhân vật Trương Phi (4 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những bộ tiểu thuyết nổi tiếng nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, những mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những nhân vật đó, ta không thể không nhớ đến Trương Phi, bộc trực, thẳng thắn, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.
Tác phẩm ra đời vào đầu thời Minh, kể về một nước chia ba (cát cứ phân tranh) trong gần trăm năm của Trung Quốc thời cổ thời kì thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quyền, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là cát cứ phân tranh, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất.
Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều đó làm Trương Phi vô cùng giận dữ. Quan Công phải trải qua thử thách để minh chứng sự trong sạch của mình.
Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ có nữa lời nói dối, không mập mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất rõ ràng, rạch ròi qua câu nói với hai chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ có một chủ đó mà thôi, còn ai thờ hai chủ, ấy là kẻ phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi suy xét, phán đoán về sự xuất hiện của Quang Công. Quan Công đột nhiên trở về sau khi đã bội nghĩa vườn đào, bỏ lại anh mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công khi ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Bởi vậy sự trở về của Quan Công là để đánh lừa Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành. Thêm vào đó hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng làm cho Trương Phi tin tưởng vào nhận định của mình hơn. Trước những chứng cớ, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần buộc tội Quan Công. Buộc tội Quan Công vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Không dừng lại ở đó Trương Phi buộc tội Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một trung thần.
Từ những suy luận, những gì mình chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng hết sức quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Càn báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, lập tức đi tắt ra cửa bắc”, Trương Phi sẵn sàng giao chiến. Khi vừa nhìn thấy Quan Công “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công cất lời hỏi lí do “Trương Phi hất hàm quát, xưng hô mày tao”, buộc tội Quan Công phản bội. Dù được hai chị dâu cùng Tồn Càn thanh minh cho Quan Công nhưng Trương Phi gạt đi tất cả vẫn luôn giữ vững những lập luận và suy xét của mình. Nhất là khi toán quân mang cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng giận dữ hơn và quát: “bây giờ còn chối nữa thôi”. Quân mã mang cờ Tào kéo đến là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và ngay lập tức Trương Phi lấy bát xà mâu, xông đến đâm Trương Phi.
Trước yêu cầu của Quan Công chứng thực lòng trung thành của mình bằng cách chém đầu tướng Tào, Trương Phi nhận lời, nhưng đưa ra điều kiện thử thách Trương Phi, là phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống. Đây quả là thử thách rất lớn đối với Quan Công, nó vừa dùng để minh chứng cho sự trong sạch, vừa cho thấy tài năng của Quan Công. Vậy tại sao chỉ là ba hồi trống mà không phải năm hồi trống. Nếu năm hồi trống sẽ là quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy, vội vã của Trương Phi, đồng thời năm hồi trống sẽ hạ thấp tài nghệ của Quan Công. Bởi vậy, ba hồi là hợp lí nhất. Đồng thời, khi đưa ra điều kiện là ba hồi trống Trương Phi cũng ngầm thể hiện, gửi gắm niềm hi vọng với Quan Công, bằng Quan Công vẫn như xưa, không phản bội anh và chính mình.
Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đã hạ gục tướng của Tào Tháo, lòng trung của Quan Công đã được chứng thực. Đó cũng là giờ phút bắt đầu quá trình hòa giải. Nếu lúc đầu Trương Phi giận dữ, nóng nảy bao nhiêu thì đến đây lại thận trọng bấy nhiêu, khác hẳn tính cách thông thường của Trương Phi. Trương Phi làm như vậy là bởi rất sợ tình nghĩa anh em bị nên cần phải có thời gian để chứng thực lòng trung của Quan Công. Thực ra, trước khi Quan Công chém đầu Sái Dương, Trương Phi cũng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu tao” đã cho thấy Sái Dương không cùng phía với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hẳn. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của quân Tào để hỏi chuyện đầu đuôi, khi ấy Phi mới tin anh là thực. Tiếp đó là cuộc trò chuyện của hai chị dâu kể về quá trình vất vả, khó khăn biết bao nguy hiểm mà Quan Công đã phải trải qua, và Trương Phi đã hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã cho thấy rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi với Quan Công.
Nhân vật được xây dựng chủ yếu qua lời đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ suy nghĩ, tính cách nhân vật – Trương Phi một người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng hết sức tình nghĩa. Cốt truyện như một màn kịch giàu kịch tính, gây sức hấp dẫn với người đọc. Chi tiết truyện đặc sắc, đặc biệt là chi tiết hồi trống có ý nghĩa thách thức và minh oan.
Bằng cốt truyện hấp dẫn, với những chi tiết đặc sắc đoạn trích đã cho thấy tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi – vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời qua đoạn trích còn ca ngợi tình nghĩa cao đẹp, sâu nặng – một biểu hiện riêng biệt của lòng trung nghĩa.
Bài làm mẫu 2
Văn học Minh – Thanh là giai đoạn phát triển cuối cùng của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là thời kì nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Có thể kể đến những đỉnh cao tiêu biểu đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng… Trong đó, Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh một thời kì dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tập kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.
Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ Thành được tóm tắt trong câu : “Chém Sái Dương anh em hòa giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người.
Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không có sức thuyết phục. Người như Trương Phi không bao giờ chấp nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt : “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Không có lời bình luận, không miêu tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mị phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đẩy lên đỉnh điểm “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Nhân vật của tiểu thuyết cổ điển tuy có tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ cũng minh hoạ cho tính cách và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo logic tâm lí. Tình nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung nghĩa là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích cộng đồng. Anh em Quan, Trương đoàn tụ khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và “rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường” khi nỗi nghi ngờ được giải toả. Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà chén rượu vẫn còn nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.
Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hóa tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết cổ điển tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không chỉ bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi thế giới nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa đã trở nên rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính cách nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một thế giới nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một thời kì lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Bài làm mẫu 3
Tam Quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh chân thực thời kì lịch sử đầy biến động của lịch sử Trung Quốc với tam quốc phân tranh quyết liệt. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất thể hiện cuộc đối đầu đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Công, những người huynh đệ từng kết nghĩa vườn đào, để khi hồi trống cổ thành vang lên mọi hiềm khích được hóa giải, người đọc lại một lần nữa cảm động về tình huynh đệ gắn bó, tấm lòng trước sau như một dù trải qua những thử thách khốc liệt nhất. Đoạn trích thành công xây dựng những nét tính cách đặc trưng của từng nhân vật, đặc biệt người võ tướng Trương Phi được khắc họa với tính cách nóng nảy, bộc trực cùng tấm lòng trung thành không gì có thể thay đổi.
Trương Phi là người võ tướng tài giỏi dưới trướng của Lưu Bị, khắc họa chân dung nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã viết: “…tiếng vang như sấm, nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi”. Nổi tiếng với tính cách bộc trực, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, có thể nói Trương Phi là nhân vật đại diện cho chữ “trung”. Tuy nhiên, người võ tướng này tính tình lại nóng nảy, bộc trực, ghét sự phản bội, đây cũng là lí do của việc nghi ngờ Quan Vân Trường thất tín và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đối đầu căng thẳng ở cổ thành.
Nói về tính cách nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, dân gian cũng đã có câu “Nóng như Trương Phi, đa nghi như tào tháo”, thế mới thấy hình ảnh của một Trương Phi dung mạnh nhưng nóng nảy đã in đậm trong tiềm thức của mọi người.
Là người trung thành, đề cao chữ Trung nên Trương Phi không thể chấp nhận được hành động phản bội, Trương Phi điển hình cho người anh hùng thời loạn đề cao trung nghĩa với lí tưởng “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục”. Sự bộc trực, trung thành tuyệt đối của Trương Phi với Lưu Bị thể hiện ngay trong hành động đối đầu với Quan Công. Trong nhận thức của Trương Phi thì Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để đi theo Tào Tháo. Do đó khi thấy Quan Công đến Cổ Thành thì Trương Phi đã quyết tâm chiến đấu đến cùng “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. Vì sự trung nghĩa, Trương Phi đã tạm gác tình cảm cá nhân mà đối đầu với Quan Công như với kẻ thù vì lợi mà phản bội anh em.
Tính cách trung thực, nóng nảy nên khi nghe báo tin Quan Công và hai chị dâu đã đến cổ thành, Trương Phi đã ngay lập tức mặc áo giáp, lên ngựa dẫn quân đi qua cửa Bắc để bắt Quan Công. Hành động quyết liệt, dữ dội cùng với thái độ giận dữ “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Tuy nhiên, ở Trương Phi cũng tồn tại hạn chế của người võ tướng, vì nóng nảy mà Trương Phi mất đi khả năng đánh giá tình hình, cố chấp không chịu tin tưởng vào những lời giải thích của Quan Công.
Cuối cùng, khi Sái Dương kéo quân đến chân thành thì Trương Phi đã đưa ra một quyết định, đó là trong ba hồi trống, Quan Công phải chém được đầu của Sái Dương để chứng minh sự trong sạch. Trong ba hồi trống ấy, Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, tuy nhiên lúc này thì Trương Phi vẫn chưa dám tin tưởng hoàn toàn, chỉ đến khi hai chị dâu cùng một tên lính trung thành thuật lại mọi việc thì Trương Phi mới nhận ra mình hiểu lầm Quan Công.
Sự ân hận đã làm cho Trương Phi quỳ xuống mà khóc, cầu xin Quan Công tha thứ. Như vậy ta có thể thấy Trương Phi là người nóng nảy, thô lỗ không biết nhận thức tình hình nhưng lại là con người sống ngay thẳng, tình cảm, Trương Phi có thể sẵn sàng cầm giáo xông vào Quan Công khi hiểu lầm người anh em nhưng cũng có thể quỳ sụp xuống xin lỗi vì biết mình đã hiểu nhầm anh.
“Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên”
Qua đoạn trích “Hồi trống cổ thành” ta có thể thấy được một Trương Phi nóng nảy, bộc trực hết lòng trung thành với Lưu Bị mà còn là người sống tình nghĩa, ghét sự bội nghĩa.
Bài làm mẫu 4
La Quán Trung (1330-1400), quê ở vùng Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là người có tính tình cô độc, sống lẻ loi, thích ngao du đây đó nên có am hiểu sâu sắc về tình hình chính trị đương thời. Tam Quốc diễn nghĩa ra đời vào khoảng đầu thời Minh (1368-1644), nội dung kể về chuyện một nước chia ba trong gần một trăm năm của Trung Quốc thời cổ (thế kỷ II, III), vào cuối đời Đông Hán (năm 184), quân thần ngu muội, nhân dân đồ thán, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nổ ra khiến chính quyền trở nên bất lực. Từ đó nổi lên các thế lực nổi lên với danh nghĩa dẹp khởi nghĩa, ủng hộ triều đình trong đó có ba thế lực mạnh nhất là Tào Tháo (Ngụy), Lưu Bị (Thục) và Tôn Quyền (Ngô) tạo thành thế chân vạc. Cuối cùng kết thúc vào năm 280 khi nhà Tần lên ngôi. Đoạn trích Hồi trống Cổ thành thuộc hồi 28 của bộ tiểu thuyết này, kể về hiểu lầm giữa hai người Quan Công và Trương Phi, sau đó là sự đoàn tụ và hóa giải hiểu nhầm làm sâu sắc thêm tình huynh đệ kết nghĩa trong thời loạn. Mà ở đây nhân vật Trương Phi hiện lên nổi bật với vai trò người anh hùng chính trực, ngay thẳng, tuy nhiên khá nóng nảy trong việc giải quyết mâu thuẫn.
Trương Phi là nhân vật nổi bật với tính cách bộc trực ngay thẳng, không biết dối trá úp mở, điều đó thể hiện qua lập trường trung thần rõ ràng, rạch ròi trong câu nói với hai người chị dâu “trung thần thà chết cũng không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Từ đó dẫn đến sự suy xét, lập luận về sự xuất hiện của Quan Công theo quan điểm của Trương Phi, Quan Vân Trường xuất hiện ở đây sau khi đã hàng Tào Tháo, tức là đã bội nghĩa nhận phong hàng tứ tước của kẻ thù, hôm nay đến đây là để đánh lừa Trương Phi, mang theo quân mã để cướp cổ thành. Như vậy Trương Phi đã có đến ba lần buộc tội Quan Công, thứ nhất là “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”, tức là tội bất nghĩa, thứ hai “mày bỏ anh hàng Tào Tháo được phong hầu tứ tước nay lại đến đây đánh lừa tao, phen này tao quyết liều sống chết với mày”, tức là tội bất trung, và cuối cùng là “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó tới đây là để bắt ta đó”, tức là tội bất nhân. Cũng từ những lập luận trên mà dẫn đến sự phản ứng quyết liệt với Quan Công của nhân vật này, bao gồm 6 phản ứng. Khi Tôn Càn báo tin mời Trương Phi ra đón Quan Công thì nhân vật này “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác mâu lên ngựa dẫn theo một nghìn quân đi tắt ra cửa Bắc”, khi vừa nhìn thấy Quan Công thì “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công hỏi nguyên cớ, thì nhân vật này nổi giận quát, đổi xưng hô mày – tao và buộc tội Quan Công ba tội bất nghĩa, bất trung và bất nhân. Khi Quan Công, hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh thì Trương Phi gạt bỏ tất cả, khăng khăng tin tưởng vào lập luận và suy xét của mình. Khi toán quân mã mang cờ Tào kéo đến nhìn thấy bụi bay mù trời từ đằng xa thì Trương Phi lập tức nổi giận “mua bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công lần nữa”. Khi Quan Công yêu cầu được chứng thực lòng trung của mình, thì Trương Phi chấp nhận nhưng đưa ra yêu cầu phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống thì mới tin. Điều kiện thời gian là ba hồi trống bởi, nếu là năm hồi thì quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, nhân vật này không thể đủ kiên nhẫn chờ đợi hết năm hồi trống, thêm vào đó mốc thời gian này nếu đưa ra còn làm hạ thấp đi tài nghệ của Quan Công. Còn nếu như chỉ là một hồi trống thì đây lại là một thử thách quá nghiệt ngã, thực chất trong lòng Trương Phi vẫn rất hy vọng rằng anh mình không phải là kẻ bất trung bất nghĩa, ba hồi trống ấy chính là quảng thời gian vừa đủ để Quan Công chứng thực được tấm lòng của mình. Như vậy việc đưa ra ba hồi trống không chỉ là thử thách mà còn gửi gắm cả niềm tin niềm hy vọng của Trương Phi với người anh kết nghĩa của mình.
Sau ba hồi trống Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, một tướng của Tào Tháo cuộc hội ngộ, hòa giải của Quan Công và Trương Phi diễn ra vô cùng xúc động. Nếu như trong cả tiểu thuyết cũng như trong phần đầu đoạn trích, Trương Phi hiện lên với tính cách nóng nảy, bộc trực thiếu kiên nhẫn, thì riêng trong phần hòa giải nhân vật này lại rất cẩn trọng, khác hẳn với tính cách thường ngày của nhân vật. Sau khi Quan Vân Trường chém được đầu Sái Dương, nhưng Trương Phi vẫn chưa tin hẳn, chỉ đến khi Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của Tào Tháo hỏi chuyện đầu đuôi chuyện ở Hứa Đô, thì bấy giờ nhân vật Trương Phi mới tin anh mình trung thành tuyệt đối. Lại đến sau khi nghe tiếp hai chị dâu kể lại việc Quan Công đã trải qua thì lúc này Trương Phi mới thực sự hiểu được những khó khăn vất vả, đau khổ mà Quan Vân Trường đã phải chịu đựng. Thế nên nhân vật này đã rỏ nước mắt khóc thương và thụp lạy anh mình, giọt nước mắt ấy vừa sự đau lòng cho những vất vả, khó nhọc mà Quan Công đã phải chịu, bên cạnh đó đó còn là giọt nước mắt hối hận về những hành động hồ đồ ban đầu của bản thân. Còn cái quỳ lạy thứ nhất là thể hiện sự cảm phục nghị lực, sự ẩn nhẫn và nhân cách của Vân Trường, thứ hai là để tạ lỗi với anh của mình.
Như vậy qua đoạn trích Hồi trống cổ thành, nhân vật Trương Phi đã xuất hiện với những nét tính cách nổi bật, nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, bộc trực, thẳng thắn, tuy nhiên đến lúc cần suy xét thì nhân vật này lại bộc lộ bản tính cẩn thận khác xa tính cách vốn có của mình. Điều đó thể hiện sự trân trọng, niềm hy vọng mãnh liệt vào tấm lòng của người anh kết nghĩa là Quan Công mà tổng thể những ý nghĩa này lại nằm gói trọn trong ba hồi trống ở cổ thành.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành 2 Dàn ý & 8 bài văn hay lớp 10 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.