Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Văn mẫu lớp 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là tư liệu cực kì hữu ích, tuyển chọn bài văn mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
Phân tích, đánh giá một bài thơ chính là đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật. Đây là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ ấy. Vậy dưới đây là dàn ý và bài văn mẫu hay nhất mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý phân tích Mời trầu
a, Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả, đôi nét về tác phẩm
b, Thân bài
– Ý nghĩa nhan đề “Mời trầu”.
– Hình ảnh miếng trầu quả cau nhỏ bé như chính số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
– Lời khẳng định bản thân, tuyên bố chủ quyền của thi sĩ.
– Câu nói giao duyên, tự đi tìm hạnh phúc, tự se duyên cho chính mình.
– Nỗi niềm trăn trở, mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi.
c, Kết bài
Khẳng định giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm qua những câu thơ bình dị, giàu tính nhân văn mà nhà thơ Hồ Xuân Hương thổ lộ.
Phân tích bài thơ Mời trầu
Xuân Diệu, nhà thơ, nhà bình thơ tinh tế đã viết về bài thơ “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương, song chủ yếu nghiêng về bình diện xã hội học: “Bọn cậu viên, cậu ấm không thực bụng yêu thương, chỉ định quẩn quanh chim chuột, bọn bạc tình, bọn nhạt nhẽo” được Xuân Hương lấy cau, lấy trầu ra mời mà thực là mắng khéo hoặc mỉa mai… Cậu công tử kia lần sau còn đến, và lần này Xuân Hương lại dùng đến trầu cau một cách rõ ràng hơn, để tống khách đi ngay từ cái phút “miếng trầu làm đầu câu chuyện”
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nhưng vấn để không chỉ có thế. Đi sâu khảo sát câu chữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn ấy lại mở ra khá nhiều phương diện nghệ thuật sâu lắng phù hợp với phong cách tư duy thơ ca của Hồ Xuân Hương.
Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng vận dụng không được nữ sĩ mô tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải cái đẹp thông thường, mà căn bản cảm nhận ở khía cạnh bất thường, dị thường. Ở đây, quả cau phải là “nho nhỏ còn miếng trầu thì “hôi”. Điều này có sự chiếu ứng tương hợp với quan niệm cái đẹp và hình thức tư duy nghệ thuật trong phần lớn các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong dự cảm sáng tạo của mình, dễ thấy nữ sĩ thường đồng cảm với những đối tượng tầm thường nhỏ mọn như loại con ốc, cái quạt, quả mít “xù xì”, cái trống “thủng”, bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm”, đồng tiền “hoẻn”; cho đến những hình ảnh thiên nhiên cũng thô kệch, méo mó, kì dị, dị thường đến hết mức, với những đá “ông chồng, bà chồng”, trăng “chín mõm mòm”, “dỏ lòm lom”… Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, “đỏ lòm lom”… Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, chỉ từ “này” đi với đại từ sở hữu “của” vừa có nghĩa để chỉ quả cau, miếng trầu trên kia, vừa có nghĩa chỉ về một cái gì đó, một cái nào đó “của” Xuân Hương. Hơn nữa, cái “này của Xuân Hương” cũng hàm nghĩa chuyển tiếp, phiếm chỉ những trầu, cau ở câu trên và nối với động từ “quệt”. Ý thơ ở đây khá là lấp lửng: “trầu cau – cái này” và “cái này – quệt” (quệt vôi hoặc có thể quẹt cái gì đó!). Cách nói ỡm ờ, thanh – tục, tục – thanh kiểu này vốn rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương.
Còn lại hai câu thơ sau vừa mở ra những tuyến cảm xúc trữ tình như khác biệt mà kì thực lại nương tựa, liên hệ hoàn chỉnh lẫn cho nhau. Câu thơ “Có phải duyên nhau thì thắm lại” chính là một lời “mời mọc, khao khát nguyện cầu” cho duyên tình tròn đầy; còn câu kết “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” lại là tiếng nói răn đe, cảnh tỉnh, hàm thêm một nghĩa phê phán khinh bạc: loại người “xanh như lá, bạc như vôi’’ ấy mà. Câu thành ngữ được sử dụng ở đây quả là đắc dụng. Điều sâu lắng và tế nhị hơn, khi nói về sự “phải duyên”, nhà thơ đã nói hết lẽ, nói đến điều cái kết quả viên mãn “thắm lại”; nhưng ở câu thơ sau, thi nhân chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: “Đừng…”, chứ không đành lòng, không nỡ nói tới tận cùng cái nhân, cái quả như kiểu câu thơ trên. Một lời khuyên nhủ, cảnh tỉnh xa xôi, kể cũng thật tình tứ và giàu lòng trắc ẩn.
Có một điều khác nữa – và đây mới là điểm nút để hiểu cả bài thơ – là mối liên hệ logic sâu xa giữa hai câu thơ sau này với ý tưởng chủ đạo qua câu thơ mở đầu. Dường như ờ đáy sâu tâm thức sáng tạo, dự cảm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đồng hành với tiếng nói nguyện cầu khát khao hạnh phúc. Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ “Mời trầu” chắc hẳn không chỉ gắn với ý nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.