Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du Dàn ý & 4 bài văn hay lớp 10 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Cảm nhận Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du mang đến cho các bạn 5 bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các em học sinh lớp 10 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn. Đồng thời giúp cho các em có thêm vốn từ phong phú khi diễn đạt.
Chí khí anh hùng là đoạn trích hay và ý nghĩa. Ca ngợi chí làm trai, chí khí của bậc đại trượng phu, lí tưởng về người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đẹp cho đời và tình cảm sâu sắc của Từ Hải và Kiều, những ước vọng đẹp cho tương lai. Vậy sau đây là 5 bài cảm nhận về Chí khí anh hùng hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý cảm nhận Chí khí anh hùng
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều
– Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng.
2) Thân bài
* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải
– Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn: “Động lòng bốn phương” công việc và chí lớn của người nam nhi.
– “Trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm phục, ca ngợi.
– “Thoắt” sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.
=> Từ Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời. Tư thế ra đi, lên đường hiên ngang, làm chủ vũ trụ.
– “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng giữa vũ trụ rộng lớn.
– “Trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.
– Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng dong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản lĩnh của người anh hùng.
– Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của mình nhưng không thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.
* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:
– Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngập đất bóng tinh rợp đường”, “Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng cho nàng cuộc sống hạnh phúc ấm no.
– Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về
* Sự dứt khoát của Từ Hải:
+ Những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi” đã thể hiện hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng.
+ Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ.
+ Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường.
* Nghệ thuật:
– Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc.
3) Kết bài
– Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Cảm nhận Chí khí anh hùng – Mẫu 1
Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, tuyệt vọng: “Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều một phấn cho rồi ngày xanh”. Từ Hải xuất hiện đột ngột ở lầu xanh và tìm đến Kiều – một người tri kỉ. Với “con mắt xanh” tinh tường, Kiều đã mau chóng nhận ra Từ Hải là một anh hùng ngay từ lúc Từ chưa làm nên sự nghiệp. Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ, nhưng tình yêu không thể níu giữ chân Từ Hải. Đang sống êm đềm và hạnh phúc bên người đẹp, Từ Hải đột ngột từ biệt Kiều ra đi lập nghiệp anh hùng.
Đây là đoạn thơ sáng tạo của Nguyễn Du. Đoạn trích thể hiện khí phách anh hùng của Từ Hải qua lời chia tay Thúy Kiều. Đoạn trích tập trung khắc họa hình ảnh người anh hùng Từ Hải – người anh hùng với chí khí cao đẹp, với quyết tâm thực hiện lí tưởng, khát vọng lớn lao. Đặt Từ Hải trong cảnh chia tay với Kiều trong cảnh “hương lửa đương nồng”, Thúy Kiều lại “một lòng xin đi” cho vẹn “chữ tòng”, trong hoàn cảnh đó Từ Hải có điều kiện để giãi bày, bộc lộ khát vọng, chí khí của mình. Chí anh hùng chính là vẻ đẹp, là khí phách của Từ Hải nó trở thành cảm hứng bao trùm cả đoạn thơ.
Trong đoạn thơ, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh không gian “bốn phương”, “bốn bề”. Đó là không gian của vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt trước mặt người anh hùng, trời bể như mở ra mênh mang và con người ấy “thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong”. Không gian đó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Từ – một người “đội trời đạp đất”, “dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi”. Không gian đó chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng lớn lao phi thường của Từ.
Đang sống trong bình yên đằm thắm, tha thiết của người vợ – người tri kỉ, có con mắt “tinh đời”. Từ Hải bỗng “động lòng bốn phương”. Chàng thấy trong lòng mình náo nức cái chí tung hoành bốn phương trời. Khát vọng vùng vẫy tự do, sống không chịu gò bó mình vào trong một khuôn khổ nào khiến Từ không chịu yên phận. Chàng vốn là người sống có lí tưởng – lí tưởng của chàng là được sống tự do, vùng vẫy giữa đất trời cao rộng không chịu một sự trói buộc nào:
“Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
Là người anh hùng với những ước mơ, khát vọng lớn lao nhưng Từ Hải cũng là một con người đa tình. Khi mới gặp Kiều, Từ Hải đã mau chóng nhận ra Kiều là người tri kỉ với mình, còn Thúy Kiều với con mắt xanh nàng cũng nhận ra Từ là người anh hùng “hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”, bởi “trai anh hùng” đã gặp “gái thuyền quyên”. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho Kiều và Từ Hải một cuộc sống hạnh phúc, êm ấm. Nhưng người vợ đẹp, thông minh, sắc sảo và hạnh phúc gia đình cũng không thể níu giữ được chân Từ. Chàng thấy “động lòng bốn phương” là thấy trong lòng sôi nổi, náo nức hướng tới trời cao đất rộng, tới cuộc sống tự do chí khí tung hoành bốn phương trời. Những hình ảnh lớn lao kì vĩ “bốn phương”, “trời bể mênh mang” xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ đã thể hiện lí tưởng và khát vọng lớn lao của Từ. Con người ấy đã nói là làm, nói đi là đi, đã đi là tới. Đó là tính cách mạnh mẽ, phi thường của người anh hùng.
Nguyễn Du để cho Từ Hải ngồi trên yên ngựa với tư thế đã sẵn sàng lên đường rồi mới nói với Kiều những lời tiễn biệt. Có thể thấy đây là một cuộc chia tay rất khác thường. Cuộc đời Kiều đã trải qua nhiều cuộc chia tay. Đó là cuộc chia tay với Kim Trọng âm thầm, lưu luyến “khách đà lên ngựa người còn ghé theo” – của đôi nam nữ thanh tú mới gặp nhau lần đầu mà đã “tình trong như đã mặt ngoài còn e”; đó là cuộc chia tay bịn rịn với Thúc Sinh “người lên ngựa, kẻ chia bào”. Trong cuộc chia tay lần này, Từ Hải đã ở trong tư thế sẵn sàng của con người dứt lòng ra đi vì nghĩa lớn, vì lí tưởng, vì sự nghiệp của mình. Tiếng gọi của sự nghiệp đã lay động chàng. Từ không thể đắm mình trong chốn phòng khuê và Kiều cũng không thể ngăn chàng thực hiện khát vọng lập nghiệp của mình. Sự nghiệp đối với Từ là điều trên hết. Đó không chỉ là ý nghĩa sự sống của chàng mà còn là điều kiện để chàng thực hiện những khát vọng, ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm ở chàng. Vì thế mà Từ đã quyết dứt áo ra đi, dường như không một chút bịn rịn, lưu luyến.
Khi Thúy Kiều xin với Từ cho nàng được đi theo, Từ đã trách người tri kỉ chưa thoát khỏi “nữ nhi thường tình”. Từ Hải mong muốn Kiều sẽ vượt lên những tình cảm thông thường để làm vợ một anh hùng có chí khí phi thường. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Thúy Kiều “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời / Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” không chỉ có sự mong chờ người yêu nơi phương xa mà còn hi vọng thành công trong sự nghiệp.
Những lời nói của Từ Hải, còn thể hiện chàng là con người rất mực tự tin. Ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải đã xem mình như một người anh hùng, sự nghiệp của chàng như đã nắm vững trong tay. Bây giờ mới bắt đầu xuất phát với “thanh gươm yên ngựa” nhưng chàng đã khẳng định không quá một năm sau chàng sẽ trở về với một cơ đồ to lớn.
Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Để xây dựng nhân vật này, nhà thơ đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để khắc họa hình tượng người anh hùng: sử dụng từ ngữ, xây dựng hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại,… tất cả đều tô đậm vẻ đẹp phi thường của Từ Hải.
Trong đoạn trích, một loạt những từ Hán Việt và những từ chỉ hành động mạnh mẽ như “trượng phu”, “thoắt” đã diễn tả những hành động dứt khoát, mạnh mẽ của con người có chí khí lớn ấy. Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ như “động lòng bốn phương”, “quyết lời dứt áo ra đi”, “trời bể mênh mang” đã giúp nhà thơ thể hiện chí khí lớn lao phong thái của người anh hùng trong lúc chia biệt. Con người ấy muốn vẫy vùng nơi trời cao đất rộng, không chịu trói mình trong cuộc sống tù túng chật hẹp. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như con chim bằng khi cất cánh thì như đám mây ngang trời, và mỗi lần bay thì chín vạn dặm mới nghỉ. Hình ảnh đó đã giúp tác giả diễn tả một cách phóng túng giây phút tiễn biệt giữa Từ Hải và Thúy Kiều.
Ngôn ngữ đối thoại cũng là tất yếu góp phần tô đậm khí phách của người anh hùng. Biết rõ Từ đi “bốn bể là nhà” Kiều vẫn tha thiết xin được đi cùng: “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng / Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”. Từ đã nói với nàng những lời kiên quyết và tin tưởng chàng trở về với “mười vạn tinh binh – tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”. Chàng hứa “Chầy chăng là một năm sau vội gì!”. Những lời nói của Từ không chỉ thể hiện khí phách hiên ngang của người anh hùng mà còn thể hiện chàng là người rất tự tin, tin vào sức mạnh tin vào tài năng của mình, chàng sẽ lập nên sự nghiệp lớn.
Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các yếu tố nghệ thuật: từ ngữ, hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải. Khuynh hướng lí tưởng hóa với những nét tính cách đẹp đẽ sinh động mang đậm chất lí tưởng.
Cảm nhận Chí khí anh hùng – Mẫu 2
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Từ Hải một nhân vật được coi là nhân vật anh hùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện rõ quan niệm của người anh hùng thời xưa. Nhà thơ Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng Từ Hải với ý chí anh hùng hơn người. Mặc dù chàng đang rất yêu Thúy Kiều nhưng chàng vẫn quyết dứt áo ra đi để được “vẫy vùng trong bốn bể” để thỏa chí anh hùng của mình.
Nếu như Từ Hải trong truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là cướp thì ở Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một anh hùng. Từ Hải không chỉ cứu được Thúy Kiều ra khỏi chốn lầu xanh mà còn giúp Kiều đền ân báo oán. Chàng đã yêu nàng và yêu một cách say đắm:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Khoảng thời gian nửa năm tính từ thời gian Kiều được chàng cứu ra khỏi chốn ong bướm lả lơi nọ. Họ sống bên nhau như vợ chồng, Thúy Kiều nguyện cùng chàng mãi mãi. Tưởng rằng tình yêu sẽ làm cho Từ Hải quên đi những ước mơ hoài bão, chí khí anh hùng có trong mình thế nhưng không. Chàng không những không quên mà thoắt cái đã muốn lên đường tung hoành ngang dọc. Thanh gươm kia, yên ngựa kia đã lâu rồi chàng không cầm, không cưỡi đến. Chàng quyết định lên đường để thực hiện những ước mơ của mình.
Chí khí ấy lớn đến nỗi cả tình yêu của Thúy Kiều cũng không thể níu giữ bước chân chàng. Kiều không có ý ngăn cản chàng đi để ở lại bên mình, cũng không phải chàng Từ Hải đã hết yêu Thúy Kiều mà bởi vì chàng muốn lên đường và chàng muốn có công danh sự nghiệp:
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Thúy Kiều mong có thể đi cùng chàng để làm vẹn chữ “tòng”, một là có thể ở bên chàng, hai là cũng có thể chăm sóc đỡ đần nhau những lúc ốm đau bệnh tật. Dù đường đi có khó khăn, có nguy hiểm dẫu sao được ở bên nhau là nàng sẽ quyết đi. Nhưng người quân tử đi thực hiện ước mơ hoài bão thì không thể có một mối bận tâm nào khác. Từ Hải khẽ trách Thúy Kiều rằng sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.
Trách khẽ rồi chàng lại khuyên nhủ cũng như bày tỏ ước nguyện của mình. Chàng hứa với Thúy Kiều sẽ đón nàng khi thành công:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Khi nào chàng có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh” và trở về trong tiếng chiêng chúc mừng hồ hởi, bóng cờ rợp đường thì khi ấy chàng sẽ rước nàng về để làm lễ nghi gia. Chàng sẽ cho Thúy Kiều một danh phận thật sự. Từ đó ta có thể thấy được ý chí quyết tâm lên đường của Từ Hải là rất lớn, chàng tự ý thức được việc đưa Kiều theo không phải là điều tốt. Bởi chàng không muốn ảnh hưởng đến ước mơ của mình cũng không muốn nàng phải chịu gian khổ. Thân gái dặm trường đến đâu cũng không thể bằng đấng nam nhi anh hùng nay đi mai ở được. Hơn nữa giờ đây bốn bể là nhà không biết ở đâu đi đâu, cho nàng theo thì chỉ thêm bận tâm mà thôi. Chàng mong Thúy Kiều hiểu cho lòng mình và mong nàng đợi chờ ít lâu, lâu nhất cũng một năm là chàng sẽ quay trở về với nàng. Nói xong những lời chia tay cuối Từ Hải dứt áo lên đường để lại đằng sau nàng Kiều trông theo.
Có thể nói Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Từ Hải – một kiểu nhân vật anh hùng. Chàng không chỉ đẹp về ngoại hình “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” mà còn đẹp bởi ý chí, khí phách anh hùng phi thường hơn người. Chàng không để chữ tình làm ảnh hưởng đến chữ chí của mình. Đây quả là điều đáng khen của bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất.
Cảm nhận Chí khí anh hùng – Mẫu 3
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thi tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?” đến “Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ), ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) thuộc phần Gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt mà Nguyễn Du dành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con người khốn khổ, và chắp cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.
Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng, đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.
Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà là cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thỏa chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.
Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”. Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương,
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la; trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc hoạ một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?
Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử:
Nàng rằng: phận gái chữ tòng.
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát như: thoắt đã, thẳng rong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích… và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống -khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Cảm nhận Chí khí anh hùng – Mẫu 4
Sập bẫy của Tú Bà, Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:
“Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là “tri âm” đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa.
Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 2230 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.
Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”. Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bốn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.
Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh… Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?
Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của “trượng phu” là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Kiều một lòng xin được theo Từ trên từng bước chàng đi cho tròn luân lí mà Nho giáo đã định ra: Là phận nữ nhi thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Ca dao ta cũng có câu:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Đây là về lí luận. Thật ra có lẽ Kiều xin theo Từ Hải là vì tình, là vì sau bao năm bị vùi dập bởi sóng gió lầu xanh Kiều đã tìm được người bạn tri âm. Nhưng với Từ Hải thì khác. Chàng đã đáp lại:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Từ Hải đã có ý trách Kiều, nhưng đó là lời trách đầy yêu thương: Đã là người hiểu biết nhau sâu sắc đến vậy sao cứ giữ mãi nếp suy nghĩ nông cạn của người phụ nữ bình thường!
Sau lời trách nhẹ nhàng đầy tình thương yêu ấy, Từ Hải mới giải thích rõ ràng. Từ phải chiêu mộ binh sĩ giỏi, làm những việc xuất chúng. Người đọc có thể suy ra là Từ chiêu mộ tướng giỏi binh hùng để lập nước, trị quốc. Với ông việc như thế thì:
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đấy là một hiện thực trong đời của con nhà lính. Từ đã trình bày cho Kiều hiểu rõ ngọn nguồn. Đó là về lí, mà cái lí ấy Từ nêu ra cũng vì tình. Từ đã khuyên Kiều:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Cùng với lời hứa:
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Với lí lẽ và lời hứa rõ ràng ấy chắc Kiều chẳng nói thêm được điều gì. Và dù có nói điều gì chăng nữa thì Từ Hải cũng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bàng đã đến kì dặm khơi.
Mạnh dạn, dứt khoát và nhanh nhạy là vì nghĩa cùa hai câu thơ mang hình ảnh ước lệ trên. Đã một lần người đọc biết hành động cao đẹp nhanh gọn dứt khoát không tính toán của Từ Hải khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nay cũng với tính cách ấy, Từ Hải hành động không chỉ vì tương lai của chàng mà còn vì cả Thúy Kiều. Trước mắt người đọc, hình ảnh Từ Hải cùng tinh binh phóng ngựa tiến về phía trước để lại đằng sau đám bụi mù thay cho hình ảnh ước lệ chim bằng bay lên cùng gió mây.
Đã hơn một lần Nguyễn Du tập trung khác họa chân dung Từ Hải. Một chân dung mà ngoại hình thật khác thường.
“Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Một chân dung mà tài năng cái thế:
“Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”.
Một chân dung mà phong thái thật anh hùng, chí hướng bay bổng ước mơ:
“Đội trời, đạp đất ở đời”
Và bây giờ với đoạn trích Chí khí anh hùng, một lần nữa càng chứng tỏ tài miêu tả, khắc họa nhân vật của nhà thơ Nguyễn Du. Cũng với các biện pháp ước lệ, nghệ thuật tượng trưng kết hợp với đối thoại quen thuộc của thể văn cổ nhưng khi Nguyễn Du vận dụng vào việc khắc họa nhân vật Từ Hải trong đoạn trích trên thì nghệ thuật ấy lại được phối hợp sáng tạo tuyệt hảo để người đọc đâu thể dễ dàng quên ngay được một nhân vật cái thế anh hùng, một tâm hồn mang bao hoài vọng của nhà thơ.
Cảm nhận về Chí khí anh hùng – Mẫu 5
Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.
Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.
Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”. Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, hoạ bốn nghề đều thông thạo. Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Nét nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Bốn câu mở đầu đoạn trích là khát vọng lên đường của Từ Hải:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Khoảng thời gian nửa năm ấy có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp bên Thúy Kiều, tình yêu đang lúc mặn nồng thì Từ Hải quyết định ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ, là người đàn ông có tài năng xuất chúng. Từ Hải đã “động lòng bốn phương”, ý chí muốn làm nên nghiệp lớn. Hình ảnh “trời bể mênh mang” như thể hiện được ý chí lớn lao của Từ Hải. Khát khao được vẫy vùng, tung hoành bốn phương là một sức mạnh tự nhiên không có gì ngăn cản nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải vốn đã là một anh hùng hảo hán “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, đã từng “Nghênh ngang một cõi biên thùy”. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn, không có gì cản được bước chân chàng.
Bất kể cuộc chia li nào cũng đẫm nước mắt và nỗi buồn, Thúy Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Trong lúc “hương lửa đương nồng” nàng không muốn cách xa Từ Hải- người chồng đồng thời là ân nhân cứu mạng thoát khỏi chốn lầu xanh. Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng”, nhắc đến chữ tòng trong lễ giáo phong kiến, có chồng thì phải theo chồng để được đi theo. Nàng muốn đi theo chồng để nâng khăn sửa túi, có người bầu bạn, cùng chia sẻ những khó khăn cuộc đời mà chồng phải chịu. Dù biết là rất gian nan và khó khăn nhưng vẫn một lòng xin theo. Đó là mong muốn chính đáng, hợp lí, thuận tình.
Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều, đó là phản ứng tất yếu của một người anh hùng chân chính:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
“Tâm phúc tương tri” nghĩa là hai người đã hiểu nhau sâu sắc, Từ Hải coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết tại sao vẫn chưa thoát khỏi “nữ nhi thường tình”. Đó là một lời trách nhẹ Thuý Kiều tại sao không thấu hiểu cho hành động của mình đồng thời đó còn là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt lên thứ tình cảm thông thường để làm vợ một người anh hùng, vượt qua những bất trắc trước mắt để hướng về một tương lai tốt đẹp hơn. Từ Hải hứa với Thúy Kiều bằng tình cảm sâu nặng:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
“Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” nghĩa là tương lai thành công. Chàng phải đi đến khi nào lập nên sự nghiệp, có tinh binh đi sau, có lá cờ rợp đất thì mới trở về tìm nàng để cho nàng có một cuộc sống sung sướng. “Rõ mặt phi thường” chứng tỏ được tài năng xuất chúng. Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp. “Rước nàng nghi gia” nghĩa là cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn. Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.
Để từ chối khéo ước nguyện muốn đi theo của Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết phục:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Chàng không cho Kiều đi theo vì không muốn vợ mình phải chịu khổ cực, vất vả. Bốn bể không có nhà thì làm sao một người con gái như nàng Kiều có thể chịu đựng được. Việc gây dựng sự nghiệp không phải ngày một ngày hai nên Từ Hải không muốn vướng bận ảnh hưởng đến việc lớn, nếu Kiều đi theo sẽ không chăm sóc được cho nàng một cách trọn vẹn. Vì thế đành hứa hẹn và an ủi nàng “Đành lòng chờ đó ít lâu”. Từ Hải là một người chồng tâm lí, người anh hùng nhưng vẫn rất chân thực, đời thường. Là con người có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai, có thể đem lại hạnh phúc cho Kiều.
Cuộc chia tay của Thúy Kiều và Từ Hải trong đoạn trích được miêu tả với sự dứt khoát:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Hành động “dứt áo ra đi” của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Qua đó, ta có thể khẳng định được Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với trời đất, vũ trụ. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.
Với nghệ thuật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; lời thoại bộc lộ tính cách, hình ảnh ẩn dụ Nguyễn Du đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng có khí phách hiên ngang, phi thường. Một con người khí chất hơn người, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của mình. Nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du Dàn ý & 4 bài văn hay lớp 10 tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.