Bạn đang xem bài viết Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố Soạn văn 11 tập 1 tuần 6 (trang 66) tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Thành ngữ, điển cố được sử dụng khá nhiều trong tiếng Việt. Hôm nay, Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Thực hành về thành ngữ, điển cố đến các bạn học sinh.
Mong rằng đây là sẽ là tài liệu hữu ích để học sinh lớp 11 có thể chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.
Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố – Mẫu 1
Câu 1. Đoạn thơ trong bài Thương vợ có sử dụng các thành ngữ:
- Một duyên hai nợ: hàm ý về gánh nặng của bà Tú khi lấy chồng.
- Năm nắng mười mưa: hàm ý chỉ sự vất vả, khó nhọc.
Các thành ngữ là các cụm từ cố định, ngắn gọn và có giá trị biểu cảm cao hơn. Chỉ với các thành ngữ trên những người đọc có thể thấy được hình ảnh bà Tú hiện lên chân thực.
Câu 2.
– Đầu trâu mặt ngựa: sự hung hãn, dã man của bọn nha lại, qua đó bộc lộ thái độ tức giận, bất bình của tác giả.
– Chim lồng cá chậu: cảnh sống tù túng, chật hẹp mặc dù vẻ ngoài hoa mĩ, thái độ mỉa mai, chế giễu cũng là xót xa.
– Đội trời đạp đất: lối sống và hành động tự do, không chịu sự bó buộc, khuất phục trước uy quyền; thái độ ngợi ca.
Câu 3.
Điển cố là những tích truyện xưa; thường là kể về các tấm gương hiếu thảo, anh hùng liệt sĩ, các tấm gương đạo đức, hoặc những truyện có tính triết lý nhân văn trong lịch sử, những câu thơ, văn kinh điển trong các tác phẩm văn học trước đó. (thường là của Trung Quốc)
Câu 4.
– Ba thu: điển cố trong Kinh Thi ý chỉ một ngày không gặp dài như ba mùa thu. Nỗi nhớ thương của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều.
– Chín chữ: điển cố trong Kinh Thi, ý chỉ công lao cha mẹ: sinh, cúc, phủ, súc,trưởng, dục, cố, phục, phúc. Kiều tưởng nhớ đến công lao cha mẹ đối với mình mà đau xót cho bổn phận làm con.
– Liễu Chương Đài: Kiều mường tượng cảnh Kim Trọng trở lại thì nàng đã thuộc về người khác mà xót xa cho chàng Kim.
– Mắt xanh: Chuyện xưa kể rằng Nguyễn Tịch đời Tấn quý ai thì tiếp bằng mắt xanh (lòng đen của mắt), không ưa ai thì mắt trắng (lòng trắng). Dẫn điển cố này để nói về cách nhìn nhận của Từ Hải về phẩm giá của nàng Kiều; mặc dù phải sống trong chốn lầu xanh, phải tiếp nhiều khách làng chơi, nhưng nàng chưa hề quý ai.
Câu 5.
a. Này các cậu, đừng có mà bắt nạt người mới. Cậu ấy vừa mới đến, mình phải tìm cách giúp đỡ chứ.
b. Họ không đi tham quan, không đi thực tế kiểu đại khái, qua loa mà đi chiến đấu thực sự, đi làm nhiệm vụ của những chiến sĩ bình thường.
=> Nhận xét: Khi thay các thành ngữ bằng từ ngữ thông thường thì chỉ đảm bảo về nghĩa, không có sắc thái biểu cảm. Đôi khi còn diễn đạt lủng củng, dài dòng.
Câu 6.
- Chúc chị mẹ tròn con vuông.
- Cháu còn ít tuổi mà đã đòi trứng khôn hơn vịt.
- Sau nhiều ngày nấu sử sôi kinh, Hạnh đã thi đỗ với số điểm cao.
- Hắn ta là kẻ có lòng lang dạ thú.
- Anh ta mới mua được cái xe mà đã mở tiệc linh đình, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.
- Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu nữa.
- Mày đúng là đồ nước đổ đầu vịt.
- Chúng ta nên sống dĩ hòa vi quý.
- Anh ấy đúng là con nhà lính, tính nhà quan.
- Cô ta thấy người sang bắt quàng làm họ.
Câu 7.
- Ai cũng có gót chân A-sin cả.
- Anh ta làm ăn thua lỗ, giờ đang nợ như chúa Chổm.
- Cậu ta chẳng có chính kiến, chẳng khác gì đẽo cày giữa đường.
- Hắn ta là một gã Sở Khanh.
- Với sức trai Phù Đổng, anh ấy có thể làm nên việc lớn.
– Tôi chúc cậu được mẹ tròn con vuông.
– Mày mà còn đòi trứng khôn hơn vịt.
– Tôi đã thi đỗ đại học, thật bõ công những ngày nấu sử sôi kinh.
– Tôi không ngờ anh là con người lòng lang dạ sói như vậy.
– Con anh ta đỗ vào cấp ba thôi mà phải mời cả họ đến, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.
– Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu.
– Mẹ dặn con như vậy mà như nước đổ đầu vịt.
– Mình nên dĩ hòa vi quý, anh ạ.
– Cậu ta đúng là con nhà lính, tính nhà quan.
– Mày đừng thấy người sang, bắt quàng làm họ.
Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố – Mẫu 2
Câu 1. Tìm thành ngữ trong đoạn thơ sau, phân biệt với từ ngữ thông thường về mặt cấu tạo và đặc điểm ý nghĩa.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
(Trần Tế Xương, Thương vợ)
- Thành ngữ: một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa
- Phân biệt: Thành ngữ là các cụm từ cố định, ngắn gọn và giàu giá trị biểu cảm.
Câu 2. Phân tích giá trị nghệ thuật của các thành ngữ in đậm trong các câu thơ sau:
– Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
– Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi
– Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông
(Nguyễn Du)
Gợi ý:
– Khắc họa vẻ hung bạo, độc ác của bọn quan lại.
– Cho thấy cảnh tù túng, chật hẹp.
– Cuộc sống tự do, không chịu khuất phục trước uy quyền.
Câu 3. Đọc lại chú thích về những điển cố in đậm ở hai câu thơ sau trong bài Khóc Dương Khuê và cho biết thế nào là điển cố
Giường kia treo cũng hững hờ.
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
(Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê)
Điển cố là những tích truyện xưa; thường là kể về các tấm gương hiếu thảo, anh hùng liệt sĩ, các tấm gương đạo đức, hoặc những truyện có tính triết lý nhân văn trong lịch sử, những câu thơ, văn kinh điển trong các tác phẩm văn học trước đó. (thường là của Trung Quốc)
Câu 4. Dựa vào chú thích trong các văn bản đã học, hãy phân tích tính hàm súc, thâm thúy của điển cố trong những câu thơ sau:
– Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
– Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
– Khi về hỏi Liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!
– Bấy lâu nghe tiếng má đào.
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Gợi ý:
– Ba thu: Điển cố trong Kinh Thi, Chỉ một ngày không gặp mà dài tự như ba mùa thu qua. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm nỗi nhớ thương của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều.
– Chín chữ: Điển cố trong Kinh Thi. Chỉ công lao của cha mẹ gồm có chín chữ là sinh, cúc, phủ, súc, trưởng, dục, cố, phục, phúc. Ở đây, Kiều tưởng nhớ đến công lao cha mẹ đối với mình mà đau xót cho bổn phận làm con.
– Liễu Chương Đài: Kiều mường tượng cảnh Kim Trọng trở lại thì nàng đã thuộc về người khác mà xót xa cho chàng Kim.
– Mắt xanh: Chuyện xưa kể rằng Nguyễn Tịch đời Tấn quý ai thì tiếp bằng mắt xanh (lòng đen của mắt), không ưa ai thì mắt trắng (lòng trắng). Cho thấy cách nhìn của Từ Hải về phẩm giá của nàng Kiều.
Câu 5. Thay thế thành ngữ trong các câu sau bằng những từ ngữ thông thường, tương đương về nghĩa:
a. Này các cậu, đừng có mà bắt nạt người mới đến. Cậu ấy vừa mới đến, mình phải tìm cách giúp đỡ chứ.
b. Họ không đi tham quan, không đi thực tế kiểu qua loa mà đi chiến đấu thực sự, đi làm nhiệm vụ của những người chiến sĩ bình thường.
Câu 6. Đặt câu với mỗi thành ngữ sau:
– mẹ tròn con vuông
– trứng khôn hơn vịt
– nấu sử sôi kinh
– lòng lang dạ sói
– phú quý sinh lễ nghĩa
– đi guốc trong bụng
– nước đổ đầu vịt
– dĩ hòa vi quý
– con nhà lính, tính nhà quan
– thấy người sang, bắt quàng làm họ
Gợi ý:
– Tôi chúc cậu được mẹ tròn con vuông.
– Mày mà còn đòi trứng khôn hơn vịt.
– Tôi đã thi đỗ đại học, thật bõ công những ngày nấu sử sôi kinh.
– Tôi không ngờ anh là con người lòng lang dạ sói như vậy.
– Con anh ta đỗ vào cấp ba thôi mà phải mời cả họ đến, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.
– Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu.
– Mẹ dặn con như vậy mà như nước đổ đầu vịt.
– Mình nên dĩ hòa vi quý, anh ạ.
– Cậu ta đúng là con nhà lính, tính nhà quan.
– Mày đừng thấy người sang, bắt quàng làm họ.
Câu 7. Đặt câu với mỗi điển cố sau:
– Gót chân A-sin
– nợ như chúa Chổm
– đẽo cày giữa đường
– gã Sở Khanh
– sức trai Phù Đổng
Gợi ý:
– Gót chân A-sin của tôi là quá mềm lòng.
– Ông ta vừa mới phá sản, giờ nợ như chúa Chổm.
– Anh đúng là đẽo cày giữa đường, ai nói gì cũng nghe theo.
– Cậu nên tránh xa gã Sở Khanh đó.
– Thanh niên hãy thể hiện sức trai Phù Đổng, làm việc lớn giúp đời.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố Soạn văn 11 tập 1 tuần 6 (trang 66) tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.