Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nói với con (4 mẫu) Cảm nhận Nói với con của Y Phương tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 4 Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương SIÊU HAY, cung cấp những thông tin hữu ích, giúp các em học sinh lớp 9 nhanh chóng lập dàn ý cảm nhận Nói với con đầy đủ những ý quan trọng.
Sau khi lập xong dàn ý, các em dễ dàng lập luận, triển khai thành bài văn hoàn chỉnh, với đầy đủ những ý quan trọng. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn để hiểu sâu sắc hơn về tình cảm cha con sâu nặng trong bài thơ Nói với con.
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Nói với con
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả:Y Phương là nhà thơ người dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên ở Trùng Khánh – Cao Bằng, ông một nhà thơ chiến sĩ. Thơ ông cuốn hút người đọc bằng vẻ đẹp vừa chất phác, mộc mạc, vừa mạnh mẽ, trong sáng. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ của ông in đậm dấu ấn tư duy hồn nhiên và lối nói rất giàu hình ảnh của người miền núi.
- Giới thiệu bài thơ: “Nói với con”ra đời vào năm 1980, in trong tập “Thơ Việt Nam 1945 – 1975″khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, Y Phương viết bài thơ này để bày tỏ tình yêu quê hương và niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình; để tâm sự với chính mình và nhắc nhở con cái sau này.
- Giới thiệu đoạn trích: Đoạn trích là khổ một của bài, là lời tâm sự, dặn dò của cha với con về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.
2. Thân bài
a) Lời người cha dặn con
– Cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
ai bước tới tiếng cười.
- Những hình ảnh thơ giàu giá trị tạo hình: “chân phải/chân trái/một bước/hai bước” đã khắc họa những bước chân trẻ thơ chập chững, non nớt. Đó là hình ảnh của con với những bước đi đầu tiên trong cuộc đời.
- Thủ pháp liệt kê “tiếng nói/cười”, “tới cha/mẹ”gợi hình ảnh em bé đang tuổi tập nói, tập đi và không khí gia đình ấm áp, yêu thương. Qua đó, ta cũng cảm nhận được ánh mắt dõi theo, khích lệ và vòng tay đón đợi, sẵn sàng nâng đỡ con của người cha, người mẹ.
=> Bằng những lời lẽ giản dị, người cha nói với con: gia đình chính là cội nguồn tinh thần, nuôi dưỡng con, là cái nôi cho con những yêu thương, ấm áp đầu đời.
Đoạn thơ còn mang ý nghĩa khái quát: Con phải học nói, học đi, để khôn lớn trưởng thành. Trên hành trình ấy, sự vững vàng “một bước/hai bước”, sự hiểu biết “tiếng nói/tiếng cười” đều có được do công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Vì thế, con không được phép quên công lao của mẹ cha.
– Cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng con còn là quê hương:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
…Con đường cho những tấm lòng
- “Người đồng mình”với cuộc sống lao động, nếp sinh hoạt hàng ngày và không gian sống (cánh rừng, con đường về nhà, về bản) đã mang đến tình yêu quê hương xứ sở.
- Hình ảnh giàu sức gợi “đan lờ cài nan hoa” vừa tả thực công cụ lao động được trang trí đẹp đẽ, vừa gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của con người. “Vách nhà ken câu hát” tả thực sinh hoạt văn hóa của người đồng mình, tả cảnh hát cho nhau nghe tràn đêm, suốt sáng khiến vách nhà như được ken dày những câu hát say sưa, tinh tế; gợi tâm hồn tinh tế, phong phú, tràn đầy lạc quan của người đồng mình.
- Thủ pháp nhân hóa: “rừng cho hoa”là vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng là niềm vui, hạnh phúc mà quê hương ban tặng, qua đó ngợi ca sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên quê hương. “Con đường cho những tấm lòng” gợi được tình cảm gắn bó, keo sơn thắm thiết của người đồng mình với căn nhà, với làng bản; gợi những bàn chân, những tấm lòng trở về với quê hương, xứ sở.
=> Cùng với gia đình, truyền thống văn hóa, nghĩa tình quê hương đã nuôi dưỡng con khôn lớn, trưởng thành.
– Con còn lớn khôn từ những kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
- “Ngày cưới”-“ngày đẹp nhất”: vì cha mẹ không chỉ tìm thấy nhau mà còn gắn bó khăng khít; là ngày minh chứng cho tình yêu, hạnh phúc; là hình ảnh của một gia đình đầm ấm, yêu thương.
- Từ đó, con được sinh ra, lớn lên trong những điều kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất trong đời. Con là quả ngọt của tình yêu của cha mẹ, là hạnh phúc của gia đình. Hai chữ “Thương lắm” bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc của người cha với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ.
b) Nghệ thuật
- Từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, in đậm lối tư duy trong sáng, hồn nhiên, sinh động của người miền núi.
- Giọng điệu khi ân cần, tha thiết, dễ đi sâu và làm lay động lòng người.
3. Kết bài
- Đoạn thơ nói riêng và bài “Nói với con” nói chung thể hiện tình yêu thương sâu nặng mà người cha dành cho con. Cha chăm nom con từng bước đi, nâng niu con từng tiếng cười, giọng nói và dạy dỗ con biết vững bước trên đường đời, biết sống sao cho xứng đáng với gia đình, quê hương.
- Bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở và niềm tự hào về người đồng mình của tác giả.
Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Nói với con
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Y Phương và bài thơ Nói với con.
- Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương cùng ý chí vươn lên mạnh mẽ trong cuộc sống.
II. Thân bài
1. Mạch cảm xúc của tác phẩm
- Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự hào về sự sống bền bỉ của quê hương mình.
- Bài thơ đi từ tình cảm gia đình, mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi thân thuộc nâng lên thành lẽ sống
2. Phân tích bài thơ
* Tình yêu thương, sự che chở đùm bọc của gia đình và quê hương với đứa con
– Người cha nhắc nhở con về cội nguồn sinh dưỡng, cha muốn nhắc nhở đứa con nhớ và hướng tới tình cảm gia đình, cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
- Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng niu và mong chờ của cha mẹ
- Nhiều từ láy, kết hợp với nhịp thơ 2/3 tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt bằng những hình ảnh cụ thể: chân phải- chân trái; tiếng nói- tiếng cười; một bước- hai bước…
→ Tác giả tạo ra được không khí ấm áp, quấn quýt và hạnh phúc. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười đều được cha mẹ chăm chút, đón nhận.
– Người cha cho con biết niềm vui của lao động và tình nghĩa của quê hương
- Con sẽ lớn lên trong câu hát, nhịp sống và lao động của người đồng mình: cuộc sống tươi vui: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”.
- Tác giả diễn tả những động tác cụ thể trong lao động, vừa nói lên cuộc sống lao động gắn bó, vừa hòa quyện niềm vui.
- Hình ảnh thiên nhiên che chở, nuôi dưỡng con về tâm hồn và lối sống.
- Người cha nhắc tới ngày cưới- ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời- đó là điểm tựa của hạnh phúc.
→ Người cha muốn nói với người con vẻ đẹp của vùng quê giàu truyền thống và nghĩa tình.
* Phẩm chất đáng quý, tốt đẹp và truyền thống văn hóa của người đồng mình
– Khi nói về quê hương, người cha tự hào khi nói về sức sống bền bỉ, mạnh mẽ mà cao đẹp của quê hương với mong muốn con tiếp nối, phát triển.
- Cụm từ “người đồng mình” được nhắc nhiều lần khẳng định phẩm chất của người đồng mình, những người có lời nói giản dị, mộc mạc gợi sự yêu thương, gần gũi.
- Phẩm chất của những người đồng mình hiện dần qua lời nói tâm tình của người cha
- Đó là tấm lòng thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn, một cuộc sống tràn ngập niềm vui và sự lạc quan.
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
- Bằng việc sử dụng điệp từ, điệp ngữ và cách so sánh cụ thể kết hợp nhiều kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời tâm tình của người cha góp phần khẳng định người miền núi tuy có nhiều khó khăn vất vả nhưng họ vẫn luôn kiên cường, sống mạnh mẽ, thiết tha với quê hương.
* Ước muốn của cha:
- Mong con thủy chung với quê hương.
- Biết chấp nhận khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình.
- Người đồng mình mộc mạc, dung dị, giàu ý chí và niềm tin, họ có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé, yếu đuối về ý chí.
- Người đồng mình biết cách nâng cao quê hương, xây dựng và duy trì truyền thống phong tục tập quán của mình.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
- Người cha muốn nhắn nhủ con phải biết tự hào vào truyền thống tốt đẹp và lối sống nghĩa tình của quê hương và người đồng mình.
- Cha mong mỏi đứa con sống cao thượng, tự trọng, chân thật dù mộc mạc, đơn sơ để xứng đáng với người đồng mình.
- Con tự tin bước đi, bởi sau lưng con còn có gia đình, quê hương, bởi trong tim con sẵn có những phẩm chất quý báu của “người đồng mình”.
3. Suy nghĩ về trách nhiệm của người làm con
Công ơn của cha mẹ không điều gì có thể sánh bằng và không thứ gì có thể so sánh được. Cha mẹ ngay từ khi cho chúng ta chào đón cuộc đời đã là một điều tuyệt diệu. Quá trình nuôi nấng dưỡng dục chúng ta, đã mất bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, làm cho cha mẹ thêm nhiều nếp nhăn và sợi tóc bạc. Bởi vậy chúng ta hãy luôn luôn phấn đấu để trở thành niềm tự hào của ba mẹ, để ba mẹ mãi hạnh phúc vì đã đem chúng ta đến với cuộc đời.
III. Kết bài
- Bài thơ Nói với con giàu hình ảnh, mộc mạc mà vẫn thơ mộng khi Y Phương thấu hiểu và thể hiện được hồn cốt, bản sắc của người dân tộc.
- Người cha nói với con chính là trao gửi tới thế hệ tiếp nối về truyền thống, niềm tự hào, khả năng sống bền bỉ của những con người dù “thô sơ”, “nhỏ bé” nhưng đầy tự trọng và kiên định.
- Liên hệ với bản thân về trách nhiệm của đạo làm con.
Dàn ý Cảm nhận của em về bài thơ Nói với con
1. Mở bài
- Sơ lược về tác giả và phong cách sáng tác.
- Giới thiệu tác phẩm.
2. Thân bài:
a. Lời gợi nhắc về tình cảm đùm bọc, che chở, yêu thương đầy ấm áp của gia đình, cộng đồng dân tộc và quê hương đối với mỗi con người.
* Trong gia đình “ Chân phải…tiếng cười”:
- Mở ra quá trình sinh trưởng của đứa con trong vòng tay yêu thương của gia đình, gợi liên tưởng đến một mái ấm vô cùng hạnh phúc, những niềm hạnh phúc dẫu giản đơn nhưng là quý giá vô cùng.
- Người cha còn muốn nhắn nhủ với đứa con bé bỏng của mình về công lao dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, con cái chính là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ, là niềm tin, niềm hy vọng để cha mẹ phấn đấu trong suốt cuộc đời.
* Trong không gian làng, bản quê hương: “Người đồng mình…cho những tấm lòng”:
- Gợi ra vẻ đẹp của “người đồng mình” trong công cuộc lao động là sự khéo léo, tài hoa; trong nền nếp văn hóa là sự yêu đời, yêu cuộc sống, chân phương giản dị, thấm đẫm trong không gian sinh hoạt làng bản.
- Gợi ra vẻ đẹp trù phú, sung túc của quê hương thông qua “Rừng cho hoa”, vẻ đẹp tình nghĩa, thấm đẫm thân tình của quê hương thông qua câu “Con đường cho những tấm lòng”.
- Nhắc nhở đứa con về vẻ đẹp, niềm hạnh phúc của một mái ấm gia đình thông qua lời nhắc về ngày cưới của cha mẹ.
=> Từ những hình ảnh thông thường của cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của người dân tộc miền núi phía Bắc, thế nhưng khi bước vào thơ của Y Phương người ta thấy những hình ấy có một vẻ đẹp khác hẳn, rất thơ và rất đậm vẻ tự hào, yêu thương, xúc động của một người con miền núi Cao Bằng.
b. Vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”:
- Vẻ đẹp của lòng kiên trì, sức mạnh, ý chí phấn đấu khắc phục mọi điều kiện khắc nghiệt, để tạo nên một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc.
- Thông qua niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”, người cha đã dặn dò, dạy bảo con bằng tất cả tấm lòng, mong con sau này lớn lên kế thừa và phát huy được những vẻ đẹp ấy, “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không chê thung nghèo đói/Sống như sông như suối/Lên thác xuống ghềnh/Không lo cực nhọc”.
- “người đồng mình” còn hiện lên với vẻ đẹp tự lực, tự cường, dẫu có nghèo khó, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ đường, “thô sơ da thịt” nhưng người đồng mình chẳng có mấy ai chấp nhận, khuất phục mà họ đều tự trở nên mạnh mẽ, cường đại trong công cuộc kiến thiết và xây dựng quê hương.
- Xây dựng riêng cho mình những phong tục tập quán tốt đẹp, gìn giữ và lưu truyền biết bao đời, xây dựng lên một cộng đồng dân tộc thống nhất.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận chung.
Cảm nhận bài thơ Nói với con chi tiết
I. Khái quát: Bài thơ ra đời cuối những năm bảy mươi của thế kỉ XX, khi cả đất nước đứng trước hiện thực khó khăn sau chiến tranh. Với hai mươi tám câu thơ tự do, bài thơ có thể chia làm hai phần. Mười một câu thơ đầu là tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, tươi vui. Mười bảy câu còn lại là truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người đồng mình và mong muốn của người cha.
II. Nội dung
1. 11 câu thơ đầu: Tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, yên vui.
Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Đó là những bước đi chập chững đầu tiên, gia đình tràn ngập trong “tiếng nói, tiếng cười” yên vui. Khi con lớn lên, cha mẹ vẫn luôn theo dõi bước chân của con trên mọi nẻo đường đời. Cha mẹ là điểm tựa vững chắc nâng đỡ từng bước con đi, không gì hạnh phúc bằng con có cha mẹ.
Bảy câu thơ tiếp: Con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương.
“Người đồng mình” là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi.
Cuộc sống lao động tươi vui của người miền núi:
Đan lờ cài nan hoa
Cách nhà ken câu hát
“Đan lờ” để bắt cá, “ken” vách nhà làm chỗ che nắng, che mưa, những công việc lao động hàng ngày qua cách liên tưởng của tác giả trở nên thi vị, lãng mạn, đầy chất thơ. Động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả những động tác, cử chỉ cụ thể, vừa nối liền cuộc sống vật chất và tinh thần. Lao động, xây dựng cuộc sống no ấm, từ đó mà nảy sinh thơ ca, nhạc họa, nảy sinh đời sống tinh thần phong phú (hoa, câu hát).
Hoa biểu tượng cho cái đẹp. “Rừng cho hoa” để tâm hồn người đồng mình thêm phong phú, biết yêu thương, trân trọng những giá trị tinh thần. “Con đường cho những tấm lòng” thơm thảo, biết sẻ chia, biết đồng cảm nỗi buồn vui. Thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình đã nuôi dưỡng, chở che con người, nếu con người biết gắn bó với quê hương, quê hương sẽ cho tất cả những gì tốt đẹp nhất cả giá trị vật chất lẫn tinh thần. “Người không phụ đất thì đất chẳng phụ người”.
Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc, thiên về cách nói cụ thể, vừa sinh động, khái quát mà vẫn không kém phần thi vị về vẻ đẹp cuộc sống lao động của người miền núi.
2. 17 câu còn lại: Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong muốn của người cha qua lời tâm sự với con.
Mỗi lần người cha tâm sự với con về “người đồng mình” thì một lần phẩm chất cao đẹp của người đồng mình lại hiện ra.
a. Người đồng mình … cực nhọc.
– “Người đồng mình” cuộc sống vất vả “lên thác xuống ghềnh” nhưng giàu chí khí, biết lấy “nỗi buồn” mà “nuôi chí lớn”, lấy cái cao xa của đất trời làm thước đo “nỗi buồn” và “chí lớn” ấy.
– Người cha muốn con ghi nhớ lấy những truyền thống ấy để mà thương mà nhớ:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn… nghèo đói”.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là mảnh đất thiêng liêng, càng nghèo khó, càng phải gắn bó sẻ chia. Bởi vậy, mà quê hương đi vào văn học với một niềm thương nỗi nhớ của bao thế hệ. Họ tự hào hát về quê hương. Người dân xứ Nghệ hát về quê mình:
“Ơi Hà Tĩnh mình, đường về có nhớ
Trời chang chang nắng ai quàng áo tơi
Cho ta thương nhau mồ hôi chát mặn
Cho ta thương nhau vầng trăng không lẻ bạn
Đứt ruột nhớ mong…”
Người Quảng Bình tự hào:
“Giữ lấy đất trời của quê hương ta
Giữ lấy con người mà ta yêu quý…”
Quê hương dù nghèo đói, khổ đau… nhưng bát cơm, dòng nước quê hương vẫn chảy trong ta, nơi đó ấp iu bao nghĩa tình. Nhạc sĩ khẳng định:
“Sông cứ chảy trong ta, núi cứ lớn trong ta
Đi xa lại muốn về, khổ đau càng muốn về”
Bởi như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng nói:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
b. “Người đồng mình thô sơ da thịt” nhưng không nhỏ bé về tâm hồn. Như đã nói ở trên, họ giàu chí khí, tâm hồn phong phú, biết đồng cảm, sẻ chia.
c. Người đồng mình… phong tục.
– “Đục đá”, một cách nói cụ thể diễn đạt công việc lao động vất vả theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Dẫu phải “đục đá”, họ vẫn muốn lao động xây dựng quê hương giàu đẹp, “kê cao quê hương”. Một tình yêu chân chính, sâu sắc phải được biểu hiện bằng hành động cụ thể. Yêu quê hương mà quê hương vẫn còn nghèo khó thì phải lao động để xây dựng quê hương. Còn “quê hương thì làm phong tục”, “phong tục” là lối sống, nếp sống sinh hoạt đẹp đẽ của quê hương. Lối sống đó sẽ theo con đi bốn phương trời, nhớ về quê hương là nhớ những phong tục đẹp đẽ ấy.
– Từ những truyền thống đẹp đẽ của quê hương, từ những phẩm chất của người đồng mình, người cha mong muốn:
Con ơi, tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Lần thứ nhất người cha nói đến “Người đồng mình thô sơ da thịt” để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là “người đồng mình”. “Lên đường” đi xa con phải biết tự hào về quê hương và tự tin để bước vào đời. Truyền thống của quê hương, niềm tự hào về quê hương trở thành hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.
III. Nghệ thuật
Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến rũ.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nói với con (4 mẫu) Cảm nhận Nói với con của Y Phương tại Thptlequydontranyenyenbai.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.